Ngành Thuế sẽ tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm bao quát toàn bộ hoạt động TMĐT, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong việc kê khai, nộp thuế đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh TMĐT.
>> Kéo dài giảm thuế VAT 2% để hỗ trợ doanh nghiệp
Số liệu quản lý thuế trong 2 năm gần nhất đã ghi nhận kết quả thu thuế từ các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT) đạt được kết quả rất tích cực. Điển hình là các năm 2022 doanh thu quản lý thuế là 3,1 triệu tỷ đồng (gần 130,57 tỷ USD), với số thuế đã nộp là 83 nghìn tỷ đồng; năm 2023 doanh thu quản lý là 3,5 triệu tỷ đồng (gần 146,28 tỷ USD), số thuế đã nộp là 97 nghìn tỷ đồng.
Ông Mai Sơn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết, có được kết quả rất khả quan trên là nhờ các biện pháp quản lý thuế chặt chẽ, hiệu quả, số thu thuế từ hoạt động TMĐT trong thời gian qua đã tăng đáng kể qua từng năm.
Theo ông Mai Sơn, đối với Việt Nam, lĩnh vực kinh doanh TMĐT ngày càng được mở rộng và với sự đa dạng về mô hình hoạt động, nhiều đối tượng tham gia, với sự tăng trưởng được đánh giá là nhanh nhất trong khu vực Đông Nam Á cũng đặt ra những thách thức mới, không nhỏ đối với công tác quản lý thuế như: Khả năng quản lý đầy đủ các nguồn thu, đối tượng nộp thuế, áp dụng quản lý hiện đại, hiệu quả, phù hợp thông lệ quốc tế trên nguyên tắc quản lý tuân thủ theo rủi ro trên cơ sở dữ liệu lớn về TMĐT được xây dựng từ cơ sở dữ liệu quản lý thuế và cơ sở dữ liệu về quản lý nhà nước đối với TMĐT từ các bộ, ngành có liên quan.
Dự báo trước tình hình phát triển của nền tảng TMĐT, trong thời gian vừa qua, ngành Thuế đã áp dụng các biện pháp quản lý hoạt động TMĐT theo 8 nhóm nền tảng: Nền tảng Sàn giao dịch TMĐT; Website/ứng dụng TMĐT; Nền tảng mạng xã hội; Nền tảng giao thông, vận tải, giao nhận; Nền tảng đại lý; Nền tảng thuê bao; Nền tảng quảng cáo; Nền tảng kho ứng dụng.
Ngoài ra ngành Thuế cũng phân loại người nộp thuế tham gia hoạt động TMĐT theo 02 nhóm chính.
Thứ nhất là nhóm cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong trong nước (bao gồm: chủ sở hữu nền tảng có hoạt động TMĐT, Tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong nước thông qua sàn giao dịch TMĐT, mạng xã hội và các nền tảng khác);
Thứ hai, cung cấp hàng hóa, dịch vụ xuyên biên giới (bao gồm: Nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam; Tổ chức, cá nhân Việt Nam có thu nhập từ hoạt động đăng tải sản phẩm, nội dung thông tin số trên các nền tảng nước ngoài; Tổ chức, cá nhân cung cấp hàng hóa, dịch vụ xuyên biên giới thông qua sàn giao dịch TMĐT và các nền tảng khác).
Ông Mai Sơn cho biết, Bộ Công an và Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) đã hoàn thành việc kết nối, chia sẻ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để thực hiện việc rà soát đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với cơ sở dữ liệu về mã số thuế.
Đến nay, nếu tính trên số lượng mã số thuế không bao gồm người phụ thuộc và các mã số thuế không có nghĩa vụ thuế hoặc không có thông tin giấy tờ (CMND, CCCD) thì đã hoàn thành trên 90% việc rà soát, đồng bộ cơ sở dữ liệu của Bộ Công an với cơ sở dữ liệu về mã số thuế để triển khai việc chuyển đổi sử dụng CCCD làm mã số thuế theo quy định.
Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) cũng đã hoàn thành việc tích hợp sử dụng tài khoản định danh điện tử (VneID) với các nền tảng quản lý thuế của cơ quan thuế. Kết quả đến nay có 663.157 lượt kết nối, tổng số công dân truy cập là 400.791 lượt.
Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông và Ngân hàng Nhà nước đã bước đầu hoàn thành việc chia sẻ cơ sở dữ liệu cho Tổng cục Thuế, bao gồm: dữ liệu của 929 website cung cấp dịch vụ TMĐT; dữ liệu về 130 tổ chức hoạt động trong lĩnh vực: viễn thông, quảng cáo, phát thanh truyền hình; dữ liệu về tài khoản thanh toán của trên 9 triệu tổ chức và trên 121 triệu cá nhân tại 96 ngân hàng thương mại.
Đặc biệt, hiện cả 5 bộ, ngành, trong đó có Bộ Tài chính đã hoàn thành việc thống nhất kế hoạch chi tiết để triển khai Chỉ thị số 18/CT-TTg về việc kết nối, chia sẻ dữ liệu theo hình thức điện tử, thường xuyên, đảm bảo kịp thời hỗ trợ công tác quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT.
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết, thời gian tới, để quản lý thuế hiệu quả hoạt động TMĐT, chính sách pháp luật thuế và chính sách pháp luật chuyên ngành cần tiếp tục được củng cố, sửa đổi, bổ sung nhằm bao quát toàn bộ các hoạt động TMĐT, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong việc kê khai, nộp thuế, sử dụng hóa đơn điện tử đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh TMĐT.
Cùng với đó, ngành Thuế tiếp tục rà soát và tập trung triển khai hệ thống cơ sở dữ liệu TMĐT từ các nguồn thông tin từ các bộ, ngành; từ các tổ chức kinh doanh trong hệ sinh thái TMĐT. Trên cơ sở dữ liệu thu thập được, ngành Thuế tiếp tục tổ chức dữ liệu, phân tích rủi ro trong đó có sử dụng phương pháp học máy - áp dụng trí tuệ nhận tạo (AI) để xử lý dữ liệu, đưa ra các cảnh báo và triển khai các biện pháp quản lý thuế phù hợp theo từng đối tượng có hoạt động kinh doanh TMĐT theo nguyên tắc quản lý rủi ro.
Trong thời gian tới, dự báo ngành kinh doanh TMĐT tiếp tục xu thế và sẽ có tốc độ phát triển mạnh mẽ, ngành Thuế sẽ tiếp tục triển khai hiện đại hóa, số hóa toàn diện công tác quản lý thu, nộp thuế đặc biệt đối với nhóm NNT là hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh theo hướng tạo điều kiện thuận lợi tối đa trong việc thực hiện nghĩa vụ khai thuế, nộp thuế theo hình thức điện tử.
Tổng cục Thuế sẽ tiếp tục đẩy mạnh phối hợp, kết nối, chia sẻ thông tin giữa các bộ, ngành trong khuôn khổ triển khai Chỉ thị số 18/CT-TTg về đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu để phục vụ phát triển TMĐT, chống thất thu thuế, bảo đảm an ninh tiền tệnhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động TMĐT nói chung, công tác quản lý thuế nói riêng.
Có thể bạn quan tâm
Chống thất thu thuế TMĐT: Cần chuẩn bị các điều kiện về hạ tầng quản lý
04:00, 17/08/2022
VTCA: Hỗ trợ người nộp thuế trong tuân thủ pháp luật thuế
12:55, 17/04/2024
Ngăn chặn gian lận hóa đơn, trốn thuế
16:07, 16/04/2024
Sửa đổi luật thuế giá trị gia tăng: Cân nhắc các nhóm đối tượng không chịu thuế
15:29, 16/04/2024