Việc phát triển khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam đòi hỏi một hệ thống chính sách ưu đãi đồng bộ và thực chất.
Phát triển khu công nghiệp sinh thái không chỉ là lời giải cho bài toán môi trường trong công nghiệp, mà còn là chiến lược xây dựng các cụm liên kết ngành có sức cạnh tranh cao. Đây cũng là chìa khóa để phát triển bền vững, tăng sức hấp dẫn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chất lượng cao và từng bước hiện thực hóa các cam kết quốc gia về tăng trưởng xanh, phát triển bền vững. Đối với Việt Nam, trong bối cảnh hội nhập và yêu cầu phát triển bền vững ngày càng cao, việc chủ động chuyển đổi khu công nghiệp theo mô hình sinh thái được đánh giá là một hướng đi chiến lược.
Tuy nhiên, trên thực tế, thời điểm hiện tại cả nước có 416 khu công nghiệp được thành lập, với tổng diện tích gần 129.000 ha, nhưng mới chỉ có 6 khu công nghiệp sinh thái được thí điểm tại Ninh Bình, Đà Nẵng, Cần Thơ, TP Hồ Chí Minh. Quá trình chuyển đổi vẫn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt việc tiếp cận các chính sách ưu đãi còn nhiều hạn chế. Ông Trần Văn Sơn, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc điều hành TONMAT Group khẳng định, xu hướng phát triển khu công nghiệp sinh thái sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực về môi trường, kinh tế - xã hội song còn gặp nhiều thách thức do chi phí đầu tư ban đầu cao hơn 15 - 30% so với khu công nghiệp thông thường; thiếu chính sách khuyến khích rõ ràng nên cơ bản vẫn hoạt động như khu công nghiệp truyền thống; thiếu liên kết, chia sẻ tài nguyên (nước, năng lượng, phụ phẩm…) giữa các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi công nghệ còn chậm, khó tiếp cận nguồn tài chính xanh và thiếu nhân lực chuyên môn về phát triển bền vững. Do đó, cần nhiều giải pháp đồng bộ để tháo gỡ khó khăn.
Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc phát triển khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam, ông Bạch Ngọc Tùng, Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn S-Group Việt Nam cho rằng, trước hết cần hoàn thiện khung pháp lý và chính sách hỗ trợ phát triển khu công nghiệp sinh thái. Song song với đó là xây dựng và ban hành các quy chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn chi tiết cho việc thiết kế, xây dựng, vận hành khu công nghiệp sinh thái và áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn, phù hợp với điều kiện của Việt Nam; tăng cường chương trình đào tạo, tập huấn cho cán bộ quản lý, ban quản lý khu công nghiệp và doanh nghiệp về khu công nghiệp sinh thái.
Ngoài ra, ông Tùng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và chuyển giao công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực môi trường, tái chế và sản xuất sạch hơn. Việc vận hành hiệu quả Hệ thống thông tin quốc gia về khu công nghiệp và khu kinh tế cũng được đề xuất nhằm tăng tính minh bạch, cải thiện công tác giám sát sử dụng tài nguyên và kiểm soát phát thải.
“Đặc biệt, quy hoạch khu công nghiệp cần gắn kết chặt chẽ với quy hoạch đô thị, dịch vụ, đặc biệt là nhà ở và hạ tầng xã hội cho người lao động; ưu tiên đầu tư hạ tầng xanh, hạ tầng kỹ thuật dùng chung trong khu công nghiệp…”, ông Bạch Ngọc Tùng đề nghị.
Đồng quan điểm, nhiều chuyên gia cũng nhấn mạnh, để phát triển khu công nghiệp sinh thái một cách thực chất và bền vững, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp từ thể chế, chính sách đến hạ tầng và công nghệ. Trong đó, việc xây dựng và ban hành bộ tiêu chí cụ thể, minh bạch cho khu công nghiệp sinh thái là yêu cầu cấp thiết, nhằm làm cơ sở cho việc cấp phép, đánh giá, giám sát và phân loại các mô hình đang triển khai trên thực tế.
Cùng với đó, Nhà nước cần thiết lập một hệ thống chính sách ưu đãi đồng bộ và thực chất, đặc biệt trong các lĩnh vực thuế, tín dụng xanh, tiền thuê đất và tiếp cận hạ tầng. Các khu công nghiệp tiên phong triển khai hiệu quả các mô hình tuần hoàn nước, tái chế chất thải, đồng xử lý rác thải công nghiệp, sử dụng năng lượng tái tạo và vật liệu thân thiện với môi trường cần được ưu tiên hỗ trợ để tạo động lực lan tỏa. Mô hình “khu công nghiệp tuần hoàn” với trọng tâm là tối ưu hóa tài nguyên và giảm thiểu phát thải cần được khuyến khích áp dụng rộng rãi và nhân rộng.