Dự thảo Chiến lược phát triển Logistics Việt Nam: “Kim chỉ nam” cho doanh nghiệp

Bài - Ảnh: THY HẰNG 24/01/2024 12:01

Chiến lược phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đang được Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan xây dựng và lấy ý được coi là "kim chỉ nam" của doanh nghiệp.

>>>Sáu xu hướng định hình thị trường logistics năm 2024

Tại Hội thảo xin ý kiến Dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, ông Trần Duy Đông, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương cho biết, sau 7 năm triển khai Quyết định 200/QĐ-TTg về Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025, ngành logistics nói chung và năng lực hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics của các doanh nghiệp ở nước ta nói riêng đã có những bước tiến đáng kể.

Hội thảo xin ý kiến Dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050

Hội thảo xin ý kiến Dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. 

Cụ thể, thứ nhất, nhận thức về vai trò và tiềm năng phát triển ngành dịch vụ logistics được nâng cao ở tất cả các cấp từ Trung ương đến địa phương và các Hiệp hội, doanh nghiệp. Điều này được thể hiện rõ trong các chủ trương của Đảng, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, các Bộ, ngành, địa phương, Hiệp hội có liên quan, về cơ bản đều chủ động ban hành Kế hoạch hành động để triển khai thực hiện Quyết định 200/QĐ-TTg và Quyết định 221/QĐ-TTg.

Thứ hai, trong 7 năm vừa qua, được sự quan tâm chỉ đạo đặc biệt của các cấp Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngành dịch vụ logistics đã từng bước tạo lập và hoàn thiện khung pháp lý. Bên cạnh Quyết định số 200/QĐ-TTg, Quyết định số 221/QĐ-TTg, Nghị định số 163/2017/NĐ-CP và Chỉ thị số 21/CT-TTg vừa qua Chính phủ đã ban hành Nghị định số 96/2022/NĐ-CP ngày 29 tháng 11 năm 2022 và Nghị quyết số 163/NQ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2022. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về dịch vụ logistics chính thức được Chính phủ giao Bộ Công Thương và Nghị quyết số 163/NQ-CP này mang tính đột phá cao tạo hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh thông thoáng, lành mạnh thúc đẩy hoạt động logistics của nước ta ngày càng phát triển bền vững.

Thứ ba, ngành dịch vụ logistics đóng góp tích cực vào các hoạt động kinh tế, trước hết là xuất nhập khẩu và sản xuất, lưu thông phân phối trong nước. Dù chi phí còn ở mức cao nhưng ngành dịch vụ logistics đã có những đóng góp không nhỏ trong hoạt động xuất nhập khẩu, đưa hoạt động xuất nhập khẩu thành một điểm sáng bởi tốc độ tăng trưởng vượt bậc so với giai đoạn trước. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam từ mức 428,1 tỷ USD năm 2017 lên 681,1 tỷ USD năm 2023 với tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 8,4%/năm cho cả giai đoạn 2017 - 2023. Đặc biệt trong những năm 2020, 2021 và 2022 vừa qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu luôn tăng trưởng dương bất chấp những khó khăn do dịch bệnh Covid-19.

Thứ tư, hạ tầng logistics ngày càng được cải thiện. Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương quan tâm đầu tư phát triển các tuyến đường cao tốc, các sân bay, bến cảng và trung tâm logistics được xây dựng mới, mở rộng đã góp phần nâng cao năng lực xử lý hàng hóa, thúc đẩy lưu thông hàng hóa nhanh chóng và thuận tiện.

Thứ năm, thị trường dịch vụ logistics ngày càng mở rộng, số lượng doanh nghiệp và chất lượng dịch vụ logistics cũng gia tăng và từng bước được nâng cao, tham gia tích cực vào việc hỗ trợ sản xuất, lưu thông trong nước và xuất nhập khẩu.

Việt Nam hiện có hơn 34.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) của Việt Nam năm 2023 xếp thứ 43/139 nước và vùng lãnh thổ tham gia nghiên cứu, tăng 21 bậc so với năm 2016. Việt Nam cũng là nước xếp hạng ở tốp đầu trong các thị trường mới nổi, tốc độ phát triển của ngành logistics ở Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng 14-16%, quy mô khoảng 40-42 tỷ USD/năm. Chất lượng cung cấp dịch vụ logistics được nâng cao rõ rệt, số lượng các dịch vụ logistics được cung cấp đa dạng, thị trường logistics của Việt Nam được mở rộng, các doanh nghiệp tham gia vào nhiều khâu trong chuỗi dịch vụ logistics, tiến dần đến những khâu có giá trị gia tăng cao.

Thứ sáu, hoạt động đào tạo, ứng dụng công nghệ và các hoạt động khác hỗ trợ tích cực cho ngành dịch vụ logistics cũng ngày càng được quan tâm phát triển. Số lượng các trường, viện, cơ sở tham gia đào tạo về logistics ngày càng tăng, chương trình đào tạo được nâng cấp theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp, gắn với thực tế, đội ngũ giảng viên gia tăng về số lượng và nâng cao về trình độ. Nhiều giải pháp công nghệ được ứng dụng trong quản lý kho bãi, phương tiện, hàng hóa giúp hoạt động dịch vụ logistics được thực hiện tốt hơn, nhanh hơn.

Hoạt động đào tạo nhân lực cho ngành logistics hiện nay đã được thực hiện ở 3 cấp độ: (i) đại học và trên đại học; (ii) cao đẳng và trung cấp; (iii) đào tạo nghề ngắn hạn. Bên cạnh đó, các khóa đào tạo ngắn hạn cũng được các Bộ, ngành phối hợp cùng các hiệp hội tổ chức thường xuyên nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng cho nhân lực trong ngành dịch vụ logistics.

Thứ bảy, cơ chế đối thoại giữa các cơ quan quản lý nhà nước về logistics với doanh nghiệp cũng như công tác thông tin tuyên truyền nhằm phát triển dịch vụ logistics ngày càng được tăng cường. Từ năm 2013 đến nay, Bộ Công Thương đều đặn chủ trì tổ chức Diễn đàn Logistics Việt Nam, tạo được sự kết nối chặt chẽ và đối thoại thẳng thắn ở cả ba cấp độ giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương, địa phương với các hiệp hội, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics.

>>>Doanh nghiệp tăng cường liên kết phát triển logistics vùng ĐBSCL

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động phát triển logistics quốc gia vẫn còn một số tồn tại, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu thẳng thắng, việc xây dựng khung khổ pháp lý, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng lành mạnh cho hoạt động logistics còn gặp nhiều khó khăn, bất cập trong triển khai thực tiễn, một số các quy định vẫn còn chồng chéo chưa phù hợp.

Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu thẳng thắng, việc xây dựng khung khổ pháp lý, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng lành mạnh cho hoạt động logistics còn gặp nhiều khó khăn

Cục trưởng Trần Duy Đông thẳng thắng, việc xây dựng khung khổ pháp lý, tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng lành mạnh cho hoạt động logistics còn gặp nhiều khó khăn.

Thứ hai, công tác phối hợp nghiên cứu, triển khai xây dựng quy hoạch của các Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự phát huy hiệu quả, hiệu lực; một số tỉnh, thành phố có tiềm năng nhưng cơ sở hạ tầng thương mại, hạ tầng giao thông chưa được đầu tư tương xứng nên các hoạt động dịch vụ logistics nhìn chung chưa phát triển được.

Thứ ba, điểm yếu của các doanh nghiệp logistics Việt Nam là chi phí dịch vụ còn cao, chất lượng cung cấp một số dịch vụ còn chưa đáp ứng được các thị trường khó tính. Nguyên nhân chính là hạn chế về quy mô doanh nghiệp, về vốn, kinh nghiệm và trình độ quản lý, khả năng áp dụng công nghệ thông tin cũng như trình độ nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động quốc tế. Bên cạnh đó, là hạn chế về kết cấu hạ tầng logistics và chi phí vận tải trên đường bộ, phụ phí cảng biển do các chủ tàu nước ngoài áp đặt.

Thứ tư, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số tại doanh nghiệp dịch vụ logistics còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ lớn các ứng dụng công nghệ thông tin hiện đang được sử dụng tại các doanh nghiệp dịch vụ logistics là các ứng dụng cơ bản với những chức năng riêng biệt như quản lý giao nhận, kho bãi, trao đổi dữ liệu điện tử, quản lý vận tải hay khai báo hải quan... Nguyên nhân chính là khó khăn về tài chính do chi phí để đầu tư chuyển đổi số lớn trong khi phần lớn các doạnh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ với số vốn hạn chế. Bên cạnh đó, về nhận thức, trình độ, thói quen của cả lãnh đạo và nhân viên, cùng với việc lựa chọn công nghệ thích hợp cũng là một rào cản.

Thứ năm, hoạt động triển khai, điều phối các nhiệm vụ phát triển logistics quốc gia còn gặp nhiều khó khăn do đặc thù ngành dịch vụ logistics bao gồm nhiều lĩnh vực thuộc sự quản lý của nhiều Bộ, ngành khác nhau. Cơ chế phối hợp, thông tin giữa các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp còn chậm trễ. Bộ máy tổ chức và cán bộ chuyên trách làm công tác quản lý nhà nước về dịch vụ logistics còn thiếu, chủ yếu kiêm nhiệm nên hiệu quả chưa cao.

Trước thực tế này, Chiến lược phát triển dịch vụ Logistics Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được coi là "kim chỉ nam" tạo nền tảng cho doanh nghiệp trong ngành phát triển, hiện thực hoá những mục tiêu và giải pháp cụ thể phát triển ngành dịch vụ logistics Việt Nam bền vững, hiệu quả, chất lượng và có giá trị gia tăng cao, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới, phát huy lợi thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Cụ thể, ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu cho biết, Chiến lược đặt mục tiêu năm 2030 là tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 6-8%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 60 - 70%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 16 - 18% GDP; xếp hạng theo chỉ số LPI trên thế giới đạt thứ 45 trở lên.

Mục tiêu đến năm 2050, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 12 - 15%; tỷ lệ thuê ngoài đạt 70-90%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 10-12%; xếp hạng theo chỉ số LPI trên thế giới đạt thứ 30 trở lên.

ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu cho biết, Chiến lược đặt mục tiêu năm 2030 là tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 6-8%.

Ông Trần Thanh Hải cho biết, Chiến lược đặt mục tiêu năm 2030 là tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 6-8%.

Chiến lược cũng đưa ra 7 nhóm nhiệm vụ lớn gồm, thứ nhất, hoàn thiện thể chế pháp luật, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển logistics.

Thứ hai, đổi mới quy hoạch, đẩy mạnh đầu tư xây dựng hạ tầng phát triển dịch vụ logistics theo hướng đồng bộ, hiện đại.

Thứ ba, phát triển thị trường logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, thúc đẩy liên kết vùng kinh tế, hành lang kinh tế, khu vực và quốc tế bảo đảm tăng trưởng bền vững, đồng thời nâng cao chất lượng và xanh hoá các hoạt động dịch vụ logistics dựa trên nền tảng số.

Thứ tư, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh trong lĩnh vực logistics.

Thứ năm, đào tạo nguồn nhân lực logistics chất lượng cao và phong cách cung ứng dịch vụ chuyên nghiệp.

Thứ sáu, đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, nâng cao nhận thức, tạo quyết tâm triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển logistics ở cả Trung ương và địa phương.

Thứ bảy, nâng cao vai trò của các Hiệp hội trong lĩnh vực logistics và các doanh nghiệp hạt nhân, thúc đẩy hình thành các chuỗi cung ứng hiện đại, phát triển các dịch vụ logistics giá trị gia tăng đáp ứng nhu cầu trong nước và quốc tế.

Có thể bạn quan tâm

  • “Hành lang đất liền – biển mới”: Kết nối logistics Việt Nam – Trùng Khánh

    13:55, 04/01/2024

  • Doanh nghiệp tăng cường liên kết phát triển logistics vùng ĐBSCL

    02:00, 03/12/2023

  • VLF 2023: Cần Thơ đẩy mạnh hoàn thiện hạ tầng logistics

    12:46, 02/12/2023

  • VLF 2023: Đẩy nhanh xây dựng Chiến lược phát triển logistics Việt Nam

    11:35, 02/12/2023

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
Dự thảo Chiến lược phát triển Logistics Việt Nam: “Kim chỉ nam” cho doanh nghiệp
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO