EVN và các đơn vị trực thuộc gặp rất nhiều khó khăn bởi các chính sách liên quan đến việc nhập khẩu than cho phát điện vẫn chưa hoàn thiện.
Đó là thông tin được ông Ngô Sơn Hải - Phó Tổng giám đốc EVN chia sẻ tại Hội thảo Thị trường than mới nổi Châu Á (Coaltrans Emerging Asia Coal Markets) mới đây.
Có thể bạn quan tâm
20:19, 02/07/2018
14:56, 30/07/2018
06:42, 04/10/2018
11:08, 24/08/2018
Theo Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh, xu hướng phát triển nhiệt điện than sẽ tiếp tục tăng. Tới năm 2020, tổng công suất nhiệt điện than sẽ đạt 26.000 MW, chiếm 42,7% tổng công suất nguồn của toàn hệ thống. Tới năm 2030, tổng công suất của nhiệt điện than có thể đạt 55.300 MW, tương ứng tỷ trọng 42,6% công suất nguồn điện tại Việt Nam. Do đó, nhu cầu than cho phát điện sẽ liên tục tăng. Đơn cử, lượng than cho phát điện năm 2017 đã tăng gấp 5,4 lần so với năm 2007.
Ông Ngô Sơn Hải cho biết, tổng công suất nguồn điện của Việt Nam tính đến hết năm 2017 là trên 45.000 MW, trong đó, nhiệt điện than chiếm tỷ trọng 38%.
Bên cạnh nhu cầu than nội địa, lượng than nhập khẩu cũng sẽ tăng cao khi các nhà máy nhiệt điện than sử dụng than nhập khẩu sẽ đi vào vận hành như: Nhiệt điện Duyên Hải 3, Nhiệt điện Quảng Trạch 1...
Ông Ngô Sơn Hải cho biết, trong năm 2017, EVN đã bắt đầu nhập khẩu than bitum, sub-bitum cho phát điện. Công tác nhập than được EVN giao cho các đơn vị chuyên trách trong Tập đoàn, trong đó có các tổng công ty phát điện.
Thực tế, EVN và các đơn vị trực thuộc gặp rất nhiều khó khăn bởi các chính sách liên quan đến việc nhập khẩu than cho phát điện vẫn chưa hoàn thiện. Bên cạnh đó, nguồn than anthracite ngày càng khan hiếm; chất lượng than bitum, sub-bitum không ổn định.
Từ 2019, EVN sẽ phải nhập thêm than anthracite để bù cho lượng than nội địa bị thiếu hụt – ông Ngô Sơn Hải cho biết.
Sự hạn chế về hạ tầng cảng than, năng lực vận chuyển của các tàu vận chuyển, điều kiện thời tiết bất lợi... cũng là những thách thức không nhỏ trong quá trình nhập khẩu than cho phát điện.
Để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, một số giải pháp của EVN trong vấn đề than cho phát điện như: Xây dựng các hợp đồng mua than trung, dài hạn và tổ chức đấu thầu công khai để chọn lựa các nhà cung cấp đủ năng lực. Trong thời gian tới, EVN cũng sẽ nghiên cứu hình thức vận tải than theo điều kiện FOB (free on board).
Cuối tháng 10 vừa qua, EVN và Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã họp bàn về giải pháp đảm bảo than phục vụ sản xuất điện trong năm tới. Tại đây, EVN đã đề nghị TKV xác định khối lượng than có thể cung cấp trong năm 2019 và trong dài hạn; thống nhất phương thức, chi phí vận chuyển… Dự kiến, năm 2019, các nhà máy điện của EVN sẽ sử dụng gần 29 triệu tấn than cho sản xuất điện.