Hàng triệu hộ kinh doanh đối mặt với thực trạng hàng tồn không hóa đơn khi chuyển sang hóa đơn điện tử và bỏ thuế khoán. Giải pháp nào hợp tình, hợp lý?
Từ chợ An Đông, Bình Tây ở TPHCM đến Ninh Hiệp (Hà Nội) hay Thổ Tang (Vĩnh Phúc), hàng nghìn sạp hàng đồng loạt đóng cửa trong thời gian gần đây, không phải vì ế ẩm, mà vì một nỗi lo khác: hàng tồn không hóa đơn.
Những ngày qua, tại chợ Ninh Hiệp (Gia Lâm, Hà Nội) đã không lạ với tình trạng, nhiều quầy vải chỉ mở hé cửa hoặc nghỉ hẳn khi cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra hóa đơn, truy xuất nguồn gốc hàng hóa. Tương tự, tại chợ Thổ Tang (Vĩnh Phúc), một trung tâm buôn bán lớn của miền Bắc – hàng trăm cửa hàng bắt đầu tạm ngưng hoạt động vào cuối tháng 5, sau khi có thông tin về đợt kiểm tra quy mô lớn liên quan đến hóa đơn và chứng từ.
Lý do đằng sau là một thực trạng đang hiện hữu trên diện rộng: khi các quy định mới về hóa đơn điện tử và khai thuế thực chuẩn bị có hiệu lực, những hàng hoá tồn kho không rõ nguồn gốc đang khiến tiểu thương cả nước lâm vào thế khó.
Cụ thể, từ ngày 1/6/2025, hộ kinh doanh bắt buộc sử dụng hóa đơn điện tử có mã. Đến đầu năm 2026, cơ chế thuế khoán sẽ chính thức bị xóa bỏ, thay bằng phương pháp kê khai doanh thu thực tế. Nhưng với hàng triệu hộ kinh doanh nhỏ lẻ, đặc biệt là những người buôn bán truyền thống, trở ngại lớn nhất không phải công nghệ, mà là… quá khứ.
Kê khai đúng – nguy cơ bị truy thu, xử phạt. Kê khai thiếu – lại bị quy kết gian lận. Trong lúc lối ra chưa rõ, lòng tin chưa đủ, nhiều người chọn cách tạm đóng cửa để “né cải cách”.
Trong bối cảnh đó, một số chuyên gia đề xuất phương án “hợp pháp hóa hàng tồn”: cho phép hộ kinh doanh kê khai một lần số hàng đang có, đóng thuế ấn định (khoảng 15%) và tiếp tục hoạt động minh bạch.
Trao đổi với báo chí về nội dung này, PGS, TS Võ Trí Hảo (Đại học Quốc gia TPHCM) nhận định, đây là cách “sang trang” hợp lý, giảm chi phí xã hội và tạo động lực chuyển đổi cho tiểu thương.
Thậm chí, với những lô hàng chưa thể bán nhưng vẫn còn giá trị sử dụng, việc chuyển sang mục đích từ thiện thay vì tiêu huỷ cũng là một lựa chọn nhân văn.
Tuy nhiên, cũng có không ít ý kiến phản biện quan điểm này. Như PGS, TS Phạm Thế Anh (Trưởng khoa Kinh tế học, ĐH Kinh tế Quốc dân) cho rằng, không thể lấy sự thuận tiện làm lý do hợp thức hóa hàng trốn thuế, hàng không rõ nguồn gốc. Nếu thiếu giới hạn chặt chẽ và cơ chế hậu kiểm, chính sách này dễ bị biến tướng thành cánh cửa cho gian thương quay lại chính ngạch qua... biên bản kê khai.
Vấn đề nằm ở chỗ: ai được kê khai? kê khai cái gì? và ai giám sát? Nếu thiếu nguyên tắc rõ ràng, chính sách sẽ bị bóp méo, đánh mất mục tiêu cải cách và niềm tin xã hội.
Trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp dưới góc nhìn pháp lý, luật sư Lê Thị Nhung – Giám đốc Công ty Luật L&A Legal Experts (Đoàn luật sư Hà Nội) phân tích, việc xử lý hàng tồn trong cải cách thuế là một phép thử cho năng lực lập chính sách chuyển tiếp công bằng và hiệu quả.
“Chúng ta đang đi từ vùng tối sang vùng sáng. Nhưng nếu ánh sáng không rõ ràng, rất dễ khiến người kinh doanh chân chính chùn bước, còn kẻ gian thì luồn lách. Muốn tránh điều đó, chính sách phải đủ minh bạch để dẫn đường, và đủ nghiêm khắc để răn đe”, bà Nhung nói.
Theo đó, luật sư Nhung đề xuất với Diễn đàn Doanh nghiệp ba nguyên tắc then chốt: Thứ nhất, cần giới hạn kê khai với hàng nhập trước 1/6/2025, đóng khung thời gian khai báo. Bên cạnh đó, cần áp dụng cơ chế theo dõi, đánh dấu hàng hóa sau kê khai đến khi tiêu thụ. Cuối cùng phải xử lý nghiêm các trường hợp khai khống hoặc hợp thức hóa hàng vi phạm, thậm chí truy cứu hình sự nếu có yếu tố tổ chức.
“Hợp pháp hóa không phải là tha thứ, mà là thiết lập lại trật tự. Chỉ khi chính sách có nguyên tắc và công cụ kiểm soát đủ mạnh, mới có thể đưa hộ kinh doanh từ vùng tối ra ánh sáng”, bà Nhung nhấn mạnh.
Trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp xung quanh câu chuyện này, một số ý kiến chuyên gia thẳng thắn cho rằng, hàng tồn – xét cho cùng là tàn tích của một thời buông lỏng quản lý. Nhưng cũng chính nó là tấm gương phản chiếu bản lĩnh cải cách. Nếu giải quyết tốt, đây sẽ là cây cầu nối giữa quá khứ và tương lai. Nếu xử lý yếu kém, sẽ trở thành kẽ hở cho gian thương lợi dụng, còn người làm ăn chân chính thì hoang mang.
Cải cách thật sự không dung dưỡng gian lận, nhưng cũng không nên bắt quá khứ phải trả giá bằng cực đoan. Và bài toán hàng tồn sẽ có lời giải bằng một chính sách chuyển tiếp, và chính sách ấy chỉ có thể thành công nếu được dẫn dắt bằng công tâm, lộ trình rõ ràng và một tinh thần cải cách không nhân nhượng nhưng cũng không vô cảm.