Dư luận nóng ran về việc các nhà máy điện gió, điện mặt trời nguy cơ bị hồi tố Hợp đồng mua bán điện với EVN về giá. Câu hỏi đặt ra là lỗi do đâu và ai sẽ phải chịu trách nhiệm?.
Ngày 05/3/2025, các chủ đầu tư của gần 60 dự án năng lượng tái tạo đã gửi đơn kiến nghị đến Chính phủ và các cơ quan liên quan phản ánh về nguy cơ các hợp đồng mua bán điện của họ với EVN đã kí từ nhiều năm trước có khả năng phải xem xét lại giá mua bán điện (dự kiến điều chỉnh giảm khoảng 25%). Nguyên nhân xuất phát từ kết luận của Thanh tra chính phủ về công tác thanh tra các dự án điện tái tạo, theo đó phần lớn các dự án (chiếm khoảng 90% số dự án/nhà máy điện mặt trời/điện gió) đều thiếu một giấy tờ trong các thủ tục liên quan đến Ngày vận hành thương mại (COD) đó là: “Văn bản chấp thuận kết quả nghiệm thu của cơ quan quản lí nhà nước”.
Lỗi thuộc về ai?
Hội nghị công bố và triển khai Nghị quyết về chủ trương tháo gỡ khó khăn cho các dự án điện tái tạo diễn ra ngày 12/12/2024 Chính phủ cũng đã nêu rõ quan điểm: “Với các dự án hưởng giá FIT vi phạm do lỗi của doanh nghiệp và không đáp ứng các điều kiện hưởng ưu đãi sẽ phải xác định lại giá mua bán điện, thu hồi tiền giá FIT qua bù trừ thanh toán tiền mua điện”.
Các nhà đầu tư lập luận rằng các nhà đầu tư không có lỗi trong chuyện này mà lỗi thuộc về cơ quan quản lí nhà nước, cụ thể đây là Bộ Công Thương. Các doanh nghiệp cho rằng kể từ thời điểm cuối cùng xác định dự án hoàn thành và được hưởng giá ưu đãi (FIT) là 31/12/2020 chưa có bất cứ hướng dẫn hay văn bản nào quy định hay hướng dẫn là dự án phải có “Chấp thuận kết quả nghiệm thu” từ các cơ quan quản lý nhà nước.
Mãi đến ngày 09/6/2023, tức là thời điểm tất cả các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích các dự án năng lượng tái tạo đã hết hiệu lực, Bộ Công Thương mới ra Thông tư số 10/2023/TT-BCT về hướng dẫn các thủ tục nghiệm thu các dự án năng lượng, mới đưa vào điều kiện phải có “Chấp nhận nghiệm thu” của cơ quan quản lí nhà nước là điều kiện để xin Giấy phép hoạt động điện lực. Do vậy, các chủ đầu tư không thể biết được cần có “Văn bản chấp thuận của cơ quan quản lí nhà nước” đối với công trình xây dựng. Và cũng chính vì vậy gần như 90% các dự án đều thiếu giấy tờ này.
Các doanh nghiệp lập luận: Việc thiếu “Chứng nhận nghiệm thu” không làm thay đổi bản chất thực sự là các dự án đã đủ điều kiện để được chứng nhận Vận hành thương mại (COD). Các cơ quan chuyên môn tham gia COD là đại diện Tổng công ty mua bán điện A0 hoặc A3 là các đơn vị có máy móc, có nhân sự chuyên môn về công tác nghiệm thu, đánh giá các công trình điện, hơn nữa đây đều là các cơ quan trực thuộc 100% EVN. Nếu EVN là bên mua điện không xác nhận các chủ đầu tư đã hoàn thành thủ tục COD trước ngày các quyết định về cơ chế khuyến khích năng lượng tái tạo hết hiệu lực thì chắc chắn EVN không bao giờ kí hợp đồng mua bán điện. Vì vậy, việc có thêm “Chứng nhận nghiệm thu” hay không không thay đổi bản chất các dự án đã đủ hay chưa đủ điều kiện công nhận ngày COD để kí hợp đồng mua bán điện.
Chủ đầu tư lãi lớn?
Trao đổi với báo chí, phần lớn các chủ đầu tư đều than thở việc dư luận cho rằng các chủ đầu tư các dự án năng lượng tái tạo được hưởng lợi lớn khi nhà nước thiết kế mức giá ưu đãi thu hút khuyến khích năng lượng tái tạo ở mức cao so với hiện nay là không đúng.
Viện dẫn, thời điểm những năm 2019 khi các dự án năng lượng mặt trời áp dụng giá FIT1 là lần đầu tiên Việt Nam có loại hình năng lượng này, tất cả các chủ đầu tư chưa hề có kinh nghiệm gì trong công tác thiết kế, thi công và vận hành dự án, hầu hết các dự án đều phải thuê tư vấn và nhà thầu nước ngoài nên chi phí bị đẩy lên cao. Ngoài ra, thời điểm đó ngay cả tại Trung Quốc là cường quốc sản xuất tấm pin năng lượng mặt trời cũng đang đầu tư quy mô lớn vào các dự án điện mặt trời nên giá tấm pin (tính theo MW) cũng ở thời kì rất cao so với hiện nay (gấp khoảng 150-200% so với hiện nay). Cùn với đó, các thiết bị khác như hệ thống Inveter, điều khiển điện, hệ thống kết nối tín hiệu…cũng cao hơn rất đáng kể so với hiện nay.
Bên cạnh đó, do sức ép về việc phải hoàn thành tiến độ trước thời điểm giá ưu đãi hết hiệu lực, các chủ đầu tư đều bị các nhà thầu xây lắp ép giá ở mức rất cao, những chi phí đền bù/ giải phóng mặt bằng cũng đều cao hơn đáng kể so với thời điểm bình thường. Chưa dừng tại đó, suốt những năm 2020, 2021 là thời điểm cả nước bị Covid-19, toàn quốc bị phong tỏa khiến các chi phí vận tải thiết bị, chi phí quản lí và các chi phí xây dựng khác đẩy lên rất cao.
Theo quyết định của Thủ tướng, EVN phải có trách nhiệm mua hết 100% sản lượng điện phát ra của các nhà máy, tuy nhiên do những nguyên nhân khác quan như Covid-19 kéo dài trong hơn 2 năm ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ điện giảm, do một số đường dây truyền tải 500Kv chưa đưa vào vận hành đúng tiến độ để giải tỏa công suất cũng như các nguyên nhân kĩ thuật khác của ngành điện, trong khi các dự án đều bị cắt giảm sản lượng mua điện tối thiểu 20% đến tối đa 30%, ảnh hưởng xấu đến doanh thu kế hoạch của các dự án điện.
Theo tính toàn của các chủ đầu tư, việc thu hồi vốn của các dự án trước 15 năm đầu khi dự án vận hành thương mại và bán điện là rất khó xảy ra.
Hệ lụy gì từ việc hồi tố?
Với khoảng 15.000MW điện gió/điện mặt trời bị ảnh hưởng bởi nguy cơ xem xét lại giá như trên, đa số các dự án mới trả nợ được khoảng 30-40% tổng giá trị khoản vay của hợp đồng tín dụng, với mức đầu từ khoảng 1-1,3 triệu USD/MW đối với dự án điện mặt trời và điện gió, thì số dư nợ còn lại của 15.000MW ước tính khoảng 10 tỷ USD, tương đương với hơn 250.000 tỷ đồng.
Nếu với mức giảm giá bán điện khoảng 25% so với giá hiện hữu và thực hiện việc bù trừ phần doanh thu đã thực hiện trong thời gian trước, các dự án gần như chắc chắn sẽ chuyển nợ xấu vì dòng tiền không đủ trả nợ theo lịch trả nợ đã được các dự án kí với các ngân hàng thương mại tại các hợp đồng tín dụng.
Vấn đề là tiền điện được EVN trả hàng tháng cho các chủ đầu tư và các ngân hàng thương mại xây dựng lịch trả nợ hàng tháng để thu số tiền điện này. Vì vậy, khi EVN áp dụng đồng thời với hầu hết các dự án năng lượng tái tạo sẽ xảy ra nợ xấu đồng thời hơn 250.000 tỷ đồng lên hệ thống ngân hàng, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến bức tranh nợ xấu, khả năng trích lập rủi ro, lợi nhuận của các ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến khả năng duy trì lãi suất, cấp tín dụng phục vụ chương trình tăng trưởng kinh tế trên 8% của Chính phủ và có thể để lại hậu quả lâu dài cho năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại.