Luật Trồng trọt được Quốc hội thông qua năm 2018, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2020, thay thế Pháp lệnh Giống cây trồng số 15/2004/PL-UBTVQH11.
Sau 5 năm thực thi Luật Trồng trọt đã có những mặt đạt được trong quản lý phân bón như quy định phân bón là hàng hóa kinh doanh có điều kiện, yêu cầu công nhận lưu hành, kiểm soát chất lượng dựa trên Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (gọi tắt là QCVN) đã và khảo nghiệm, đồng thời quy định rõ thời hạn, gia hạn công nhận phân bón.
Tuy nhiên, theo Ông Nguyễn Trí Ngọc - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam, Luật này vẫn còn nhiều điểm bất cập, đặc biệt là trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn như phân bón giả, kém chất lượng, hoặc việc kiểm soát chặt chẽ hơn nữa chuỗi cung ứng phân bón và các quy định có thể chưa theo kịp với sự phát triển của các loại phân bón mới, phân bón sinh học. Cụ thể có năm bất cập chính:
Thứ nhất, Quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam và các thủ tục hành chính kèm theo. Theo quy định tại Chương II, Nghị định 84/2019/NĐ-CP của Chính phủ Quy định về quản lý phân bón thì trong thời hạn 3 tháng khi nhận đủ hồ sơ mới được xét cấp Quyết định công nhận; Thời hạn Quyết định công nhận là 5 năm. Vì vậy viêc cấp, cấp lại, gia hạn Quyết định công nhận phân bón gây khó khăn về thời gian, kinh phí cho doanh nghiệp. Thực tế cho thấy hàng loạt phân bón kém chất lượng, phân bón giả vẫn tràn lan mặc dù hàng chục nghìn loại phân bón đã được cấp phép lưu hành. Tất cả những chi phí để được cấp Quyết định công nhận, cấp lại đều được tính vào giá thành sản phẩm phân bón, cuối cùng người nông dân phải gánh chịu toàn bộ chi phí không cần thiết này.
Theo đó ông Ngọc kiến nghị, Cần loại bỏ Quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam khỏi Luật Trồng trọt, và Nghị định của Chính phủ vì chỉ gây khó khăn, tốn kém cho doanh nghiệp. Chỉ nên quy định, khi doanh nghiệp có đủ điều kiện về sản xuất, buôn bán phân bón thì doanh nghiệp được phép sản xuất, buôn bán những loại phân bón có trong QCVN đã được ban hành. Trên cơ sở có QCVN xem, xét bỏ đăng ký công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam đối với các loại phân bón chứa các chất đa, trung, vi lượng;
Thứ hai, liên quan đến vấn đề khảo nghiệm: QCVN được ban hành, đó là hàng rào kỹ thuật quy định mức dinh dưỡng tối thiểu và mức tối đa các chất độc hại có trong phân bón. Hiện nay, rất nhiều phân bón phù hợp với QCVN nhưng vẫn phải khảo nghiệm, thủ tục thực hiện khảo nghiệm thì quá dài, phức tạp gây tốn kém kinh phí và làm chậm quá trình sản xuất của các doanh nghiệp.
Theo quy định hiện hành, trừ các phân vô cơ đơn, phân phức hợp, phân hữu cơ... thì tất cả các loại phân bón khác đều phải khảo nghiệm rồi mới được cấp lưu hành. Trên thực tế có nhiều sản phẩm có thành phần và công dụng giống nhau nhưng vẫn phải thực hiện công tác khảo nghiệm riêng biệt gây tốn kém về chi phí, thời gian, nhân lực làm tổn hại nguồn lực, sức canh tranh của doanh nghiệp. Thuốc chữa bệnh đòi hỏi cao hơn nhiều về tính an toàn nhưng tại Thông tư số 03/2012/TT-BYT ngày 02 tháng 02 năm 2012 quy định miễn thử nghiệm lâm sàng với thuốc gốc (generic) và thuốc đã lưu hành ít nhất 5 năm tại nước xuất xứ và được cơ quan có thẩm quyền của nước xuất xứ công nhận an toàn và hiệu quả.
Ông Ngọc kiến nghị, bỏ khảo nghiệm các loại phân bón đã được quy định tiêu chuẩn trong QCVN hoặc mở rộng bỏ khảo nghiệm các loại phân bón hỗn hợp NPK, trung, vi lượng. Chỉ khảo nghiệm các loại phân bón có liên quan đến sinh học (vi sinh vật, nấm, điều hòa sinh trưởng…) và phân bón có yếu tố mới. Các nguyên tố dinh dưỡng cây trồng đa, trung, vi lượng là các chất rất cơ bản và sử dụng rất nhiều năm, khắp nơi trên thế giới nên đề xuất bỏ quy định này. Trên thế giới, cơ bản các quốc gia cũng không áp dụng quy định khảo nghiệm đối với phân bón;
Thứ ba, chỉ cho phép doanh nghiệp có mã số phân bón ủy quyền cho một đơn vị để nhập khẩu.
Theo ông Ngọc luật cần mở rộng quy định cho phép một doanh nghiệp có mã số phân bón được ủy quyền mã số phân bón đó cho một đơn vị khác để nhập khẩu/gia công sản xuất trong nước và kinh doanh/phân phối sản phẩm đó (đơn vị được ủy quyền có chức năng kinh doanh phân bón). Lý do nhằm tăng tính linh hoạt trong vận hành chuỗi cung ứng cũng như phù hợp với thực tiễn kinh doanh vì hạn chế ủy quyền khiến việc triển khai kinh doanh gặp khó khăn;
Thứ tư, liên quan đến chất nhuộm màu: Hiện nay, một số loại phân bón được nhuộm bằng chất màu không rõ nguồn gốc để tạo ra các màu sắc khác nhau (0,4-1,0 kg/tấn phân bón). Việc sử dụng các chất tạo màu chưa biết rõ tính chất có thể gây ra những nguy hại đến sức khỏe của đất và đặc biệt là chất lượng nông sản.
Do vậy, cần cấp thiết đánh giá, bổ sung các quy định về việc sử dụng chất nhuộm màu trong phân bón;
Thứ năm, tại Điều 47 Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật quy định: “Chứng nhận hợp quy được thực hiện bắt buộc đối với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường thuộc đối tượng quy định trong các quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”. Theo quy định này, phân bón thuộc đối tượng phải thực hiện chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy (Điều 48, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật). Cùng với các quy định khác tại các văn bản pháp luật chuyên ngành, có thể khẳng định rằng một sản phẩm phân bón trước khi được cấp Quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam đã trải qua một quá trình kiểm tra, đánh giá của các cơ quan có chuyên môn. Việc công bố hợp quy hiện nay không có ý nghĩa trong thực tế quản lý, hình thức và trùng lặp. Ngoài ra còn tăng chi phí sản xuất và bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và gây cản trở cho hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, dễ phát sinh tiêu cực.
Cuối cùng ông Ngọc đề nghị không áp dụng hình thức công bố hợp quy trong quy định hiện hành và trong dự thảo sửa đổi Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật và Luật Chất lượng sản phẩm.