Nghiên cứu - Trao đổi

Mở khóa dòng vốn cho tài sản trí tuệ

Yến Nhung 10/12/2025 04:40

Dù được đánh giá là nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp, tài sản trí tuệ vẫn chưa thể tham gia thị trường tín dụng bởi thiếu cơ chế định giá, xử lý và bảo đảm đủ rõ ràng cho ngân hàng.

Theo Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), chỉ riêng năm 2024, Cục đã cấp hơn 53.600 văn bằng, tiếp nhận gần 153.000 đơn đăng ký. Thực tế cho thấy, số lượng tài sản trí tuệ (TSTT) của doanh nghiệp, người dân dưới nhiều hình thức khác nhau ngày càng gia tăng. Thế nhưng, khả năng đưa TSTT vào ngân hàng làm tài sản bảo đảm vẫn rất hạn chế, tạo nên nghịch lý khi tài sản có giá trị lại không thể “mở khóa” dòng vốn.

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ đưa ra nhiều điều chỉnh quan trọng liên quan đến góp vốn bằng công nghệ - Ảnh: ITN
Thực tế cho thấy, khả năng đưa TSTT vào ngân hàng làm tài sản bảo đảm vẫn rất hạn chế - Ảnh: ITN

Chia sẻ về vấn đề này, bà Vũ Ngọc Lan, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, nguyên nhân chủ yếu nằm ở bốn nhóm rủi ro lớn mà hệ thống tín dụng chưa thể vượt qua. Rủi ro đầu tiên là định giá, khi giá trị TSTT biến động mạnh theo vòng đời công nghệ và sự phản ứng của thị trường. Không có chuẩn mực định giá thống nhất hay dữ liệu đủ lớn để tham chiếu, ngân hàng rất khó xác định mức giá trị hợp lý. Ngay cả Chuẩn mực thẩm định giá tài sản vô hình theo Thông tư 37/2024/TT-BTC cũng chủ yếu dựa vào phương pháp so sánh, trong khi TSTT mang tính độc nhất nên khó tìm được đối tượng tương đồng.

Rào cản tiếp theo là tính thanh khoản thấp. Khác với bất động sản hay hàng hóa có thị trường giao dịch rõ ràng, TSTT thường gắn với hoạt động kinh doanh riêng biệt của doanh nghiệp, khiến việc bán lại khi xử lý nợ xấu vô cùng khó khăn. Nhiều TSTT lại ở dạng đồng sở hữu hoặc liên quan chuỗi giá trị phức tạp, càng làm việc định đoạt kéo dài và rủi ro tăng lên. Thêm vào đó, dù Bộ luật Dân sự và Nghị định 21/2021/NĐ-CP cho phép sử dụng quyền SHTT làm tài sản bảo đảm, Luật SHTT hiện hành vẫn thiếu các quy định đặc thù về đăng ký, công bố và xử lý khi thế chấp, khiến cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm còn lúng túng và ngân hàng e ngại tranh chấp.

Một hạn chế sâu hơn là chính các ngân hàng hiện thiếu đội ngũ thẩm định chuyên sâu về tài sản vô hình. Việc phải thuê tổ chức định giá độc lập làm tăng chi phí và thời gian xử lý hồ sơ, trong khi biến động giá trị lại buộc ngân hàng phải liên tục kiểm tra, tái thẩm định. Việt Nam cũng chưa có sàn giao dịch TSTT ở quy mô quốc gia hay cơ sở dữ liệu định giá mở để ngân hàng tham chiếu. Trong bối cảnh đó, TSTT dù có giá trị lớn vẫn kém hấp dẫn hơn nhiều so với tài sản hữu hình truyền thống.

Đặt trong tổng thể khung pháp lý hiện hành, nhiều ý kiến cho rằng Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ (Dự thảo) dù mở ra hướng đi mới cho việc sử dụng TSTT làm tài sản bảo đảm, nhưng vẫn thiếu cơ sở đủ chặt chẽ để áp dụng trong hoạt động tín dụng.

TS Nguyễn Thái Cường, Phụ trách Viện Luật So sánh, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh nhận định rằng điều kiện tiên quyết để TSTT thực sự tham gia thị trường tín dụng không chỉ nằm ở việc “được phép trên giấy”, mà phải được đặt trong một khung pháp lý rõ ràng, thống nhất và đủ khả thi để ngân hàng lượng hóa rủi ro.

Ông cho rằng, Dự thảo cần làm rõ tình trạng pháp lý của quyền sở hữu tài sản trước khi cho thế chấp; chỉ những quyền đã được xác lập rõ ràng, không vướng tranh chấp, không bị yêu cầu hủy bỏ hoặc đã hết hiệu lực mới nên được chấp nhận. Đồng thời, cần có cơ chế ghi nhận và công bố công khai việc thế chấp tại cơ quan sở hữu tài sản nhằm tạo hiệu lực đối kháng với người thứ ba, tránh phát sinh tranh chấp sau này.

Một yêu cầu khác mang tính then chốt là định giá. Giá trị TSTT không thể dựa trên mức doanh nghiệp tự đưa ra, mà phải tuân thủ chuẩn mực thẩm định tài sản vô hình và được thực hiện bởi tổ chức thẩm định độc lập. Ngân hàng cũng cần có quyền yêu cầu định giá lại khi thị trường, tình trạng pháp lý hay khả năng khai thác tài sản thay đổi.

Một nội dung khác được VCCI đặc biệt lưu ý là quy định liên quan đến trường hợp hàng hóa nhập khẩu đã nộp thuế TTĐB nhưng không bán ra thị trường - Ảnh: ITN
Để TSTT thật sự trở thành “vốn quý” của doanh nghiệp trong hệ thống ngân hàng, cần sự vào cuộc đồng bộ của cơ quan quản lý, tổ chức định giá, thị trường công nghệ và đặc biệt là một khung pháp lý đủ rõ - Ảnh: ITN

Quan trọng hơn cả, khâu xử lý tài sản khi phát sinh nghĩa vụ nợ phải được luật hóa rõ ràng. Quyền sở hữu tài sản cần có khả năng chuyển nhượng, đấu giá hoặc để ngân hàng nhận chính tài sản đó thay thế nghĩa vụ, với trình tự đơn giản và minh bạch. Sự phối hợp giữa cơ quan sở hữu tài sản và tổ chức tín dụng trong việc thay đổi chủ sở hữu, xử lý các hợp đồng li-xăng hay đồng sở hữu cũng phải được quy định cụ thể để tránh xung đột. Trong trường hợp bên thế chấp cung cấp thông tin sai lệch dẫn đến quyền sở hữu tài sản bị hủy bỏ hoặc chấm dứt hiệu lực, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cũng phải được xác định rõ.

Theo chuyên gia, việc khơi thông dòng vốn cho các doanh nghiệp sở hữu TSTT không chỉ mở rộng không gian tăng trưởng mà còn thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế dựa trên tri thức. Tuy nhiên, để TSTT thật sự trở thành “vốn quý” của doanh nghiệp trong hệ thống ngân hàng, cần sự vào cuộc đồng bộ của cơ quan quản lý, tổ chức định giá, thị trường công nghệ và đặc biệt là một khung pháp lý đủ rõ để ngân hàng yên tâm đón nhận loại tài sản này. Chỉ khi đó, TSTT mới có thể bước ra khỏi “giá trị tiềm năng trên giấy” và tham gia một cách thực chất vào dòng chảy tín dụng của nền kinh tế.

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
Mở khóa dòng vốn cho tài sản trí tuệ
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO