Nghị quyết số 66-NQ/TW sẽ là chìa khoá để tháo gỡ các "điểm nghẽn" do quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển, giúp doanh nghiệp vững bước vào kỷ nguyên mới.
Đó là nhận định của ông Phạm Quốc Long – Chủ tịch Hiệp hội đại lý, môi giới và Dịch vụ Hàng hải Việt Nam (VISABA) trong cuộc trò chuyện với phóng viên Diễn đàn Doanh nghiệp về Nghị quyết 66-NQ/TW.
Nhiều quy định gây khó khăn cho doanh nghiệp
Theo ông Long, trên thực tế, công tác xây dựng và thi hành pháp luật trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, bất cập. Một số chủ trương, định hướng chưa thực sự thể chế hóa kịp thời, đầy đủ. Tư duy xây dựng pháp luật trong một số lĩnh vực còn thiên về quản lý, chủ quan, hình thức. Bên cạnh đó, chất lượng pháp luật chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn đã dẫn đến những khó khăn, vướng mắc, khiến người dân và doanh nghiệp không thể thực hiện được, hoặc muốn thực hiện thì phải chờ hướng dẫn, kéo dài thời gian, làm tăng phí cho doanh nghiệp.
“Có những quy định chồng chéo, mâu thuẫn, chưa rõ ràng đã cản trở việc thực thi, không thực sự thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và khơi thông nguồn lực đầu tư. Chưa kể, việc phân cấp, phân quyền chưa đủ mạnh; thủ tục hành chính còn rườm rà. Thậm chí, chậm nghiên cứu, ban hành chính sách, pháp luật điều chỉnh những vấn đề mới còng lúng túng, gây khó khăn cho doanh nghiệp”, ông Long nói.
Lấy dẫn chứng trong việc chậm ban hành các quy định, tháo gỡ cho doanh nghiệp đối với hàng hoá vô chủ tại các cảng biển, ông Long cho rằng, các quy định đang quá cứng nhắc khiến hàng nghìn container tồn quá 90 ngày tại các cảng biển không thể xử lý trong suốt nhiều năm qua, là rất lãng phí.
“Việc hàng tồn đọng tại cảng số lượng lớn kéo dài gây cản trở hoạt động xếp dỡ của các hãng tàu và những đơn vị khai thác cảng. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp tại cảng, mà còn gây lãng phí hàng nghìn tỉ mỗi năm của doanh nghiệp và thuế của Nhà nước. Vì vậy, Hiệp hội hy vọng Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết 68-NQ/TW sẽ là chìa khoá để tháo gỡ những tồn đọng mà cộng đồng doanh nghiệp mong mỏi trong suốt nhiều năm qua”, ông Long nhấn mạnh.
Chìa khoá tháo gỡ những “điểm nghẽn”
Nhận định về ý nghĩa của Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, ông Trần Ngọc Liêm - Giám đốc VCCI-HCM cho rằng, hiện nay chúng ta đã có 4 nghị quyết đột phá là “Bộ tứ trụ cột”, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, gồm: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24/1/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Trong đó, Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, được đánh giá như là chìa khoá để tháo gỡ những điểm nghẽn trong thực thi pháp luật.
Cũng theo ông Liêm, điểm mới và mạnh ở Nghị quyết 66 chính là gỡ các điểm nghẽn trong hệ thống văn bản pháp luật mà bấy lâu nay các doanh nghiệp luôn vướng phải, dẫn đến không thể thực hiện được thì nay đã được cởi trói. Đơn cử, câu chuyện về quy định kích thước tối thiểu đối với cá ngừ vằn tại Nghị định 37/NĐ-CP, đang là rào cản khiến các doanh nghiệp không thể xuất khẩu hàng hoá sang thị trường châu Âu. Đây chính là vấn đề và mục tiêu của nghị quyết 66 sẽ là chìa khoá để các cơ quan chức năng làm căn cứ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, gồm 7 nhiệm vụ, giải pháp lớn, như:
Một là, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, phát huy cao độ của Đảng trong xây dựng và thi hành pháp luật
Hai là, đổi mới tư duy, định hướng xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực phát triển
Ba là, tạo đột phá trong công tác thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện công bằng, nghiêm minh, nhất quán, kịp thời, hiệu lực và hiệu quả; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng và thi hành pháp luật
Bốn là, nâng cao hiệu quả công tác hợp tác quốc tế, pháp luật quốc tế. Trong đó, hoàn thiện cơ chế, nâng cao năng lực của các cơ quan, tổ chức Việt Nam để bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ pháp lý quốc tế, định hình trật tự pháp lý quốc tế; tham gia tích cực vào việc xây dựng thể chế và pháp luật quốc tế: tận dụng hiệu quả, linh hoạt các lợi thế từ cam kết của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Năm là, xây dựng giải pháp đột phá nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật. Cụ thể, thực hiện chính sách đặc thù, vượt trội, áp dụng chế độ thù lao, thuê khoán tương xứng để thu hút, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia các nhiệm vụ, hoạt động xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật.
Sáu là, tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật.
Bảy là, thực hiện cơ chế tài chính đặc biệt cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật. Trong đó, việc đổi mới cơ chế phân bổ, quản lý, sử dụng ngân sách dành cho công tác xây dựng pháp luật trên nguyên tắc kịp thời, đúng, đủ và gắn với khoán chi theo kết quả, sản phẩm của từng nhiệm vụ, hoạt động.