Luật pháp không phải để trói quản và coi doanh nhân là đối tượng, mà phải coi họ là đối tác, là nguồn lực,... góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về Phát triển kinh tế tư nhân nhưng đã dành một mục với 416 chữ chỉ đạo về việc phân định trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự. Vì hình sự lâu nay là cái thòng lọng vô hình ảnh hưởng rất lớn và rất xấu đến ý chí đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nhân.
Bất cập của pháp luật hình sự
Một trong những định hướng rất quan trọng của Tổng Bí thư Tô Lâm và Trung ương gần đây trong xây dựng và thi hành luật pháp là: Luật chỉ quy định nguyên tắc còn những gì cụ thể, chi tiết thì giao cho Chính phủ để ứng biến linh hoạt, phù hợp với diễn biến thực tiễn. Thực ra, đây không phải là việc quay lại thời “luật khung, luật ống” mà chính là quay trở về những nguyên lý căn bản phân biệt giữa vai trò của lập pháp, hành pháp và tư pháp, là việc sửa sai sự nhầm tưởng xa rời thực tế.
Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhiều năm qua cho thấy: có nhiều trường hợp không đáng bị bắt, bị kết án tù tội, nhưng vì Bộ luật Hình sự đã quy định chốt cứng mức tiền cấu thành tội phạm, nên các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử không thể không buộc tội. Có quá nhiều trường hợp không đáng bị xử tội hình sự, nhưng không bắt, không xử thì hoá ra lại làm trái luật. Bộ luật Hình sự quy định cụ thể đến từng đồng, thì còn đâu vai trò thực sự của các cơ quan pháp luật ngoài việc cứ phải ép bằng được vào cho thật khớp đúng với khuôn khổ từng khung khoản, điểm tiết.
Nhiều thẩm phán đã từng phải bật khóc khi xét theo bản chất thì có thể tuyên một bị cáo không phạm tội, tuyên một mức án nhân văn, phù hợp hay chỉ đáng phạt cảnh cáo, cải tại không giam giữ hoặc án treo. Thế nhưng dù có vận dụng mọi tình tiết giảm nhẹ để xử dưới khung thì “luật là luật”, rất cứng nhắc, buộc phải tuyên mức án rất nặng nề, bất hợp lý. Đôi khi xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và hậu quả xảy ra, thì trộm cắp 50 triệu có khi không nặng tội, không đáng chịu hình phạt bằng việc ăn cắp chỉ 1 triệu đồng.
Lẽ ra nguyên tắc “suy đoán vô tội” không chỉ là một điều khoản được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự, mà phải trở thành tư tưởng chủ đạo, thành nguyên tắc cơ bản, phổ quát cho mọi giai đoạn tố tụng. Xử tội một người, thì số tiền tranh chấp hay thiệt hại dân sự bị coi là chiếm đoạt trong hình sự, chỉ là một yếu tố phụ, còn cái chính mang tính quyết định tội phạm và hình phạt phải là ý thức, thái độ, mục đích và hành vi của họ.
Ví dụ, một trong những trường hợp bị hình sự hóa quan hệ dân sự là anh Lý Quốc Nghiệp, là chủ Cửa hàng điện máy Quốc Nghiệp (xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh), nhận hàng điện tử để bán, nhưng đã bị bắt tạm giam 2 lần và bị phạt 4 năm tù. Ngày 24/4/2008, bản án sơ thẩm của TAND TP Trà Vinh đã tuyên anh Nghiệp phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, với tổng số tiền gần 152 triệu đồng. Ngày 08/9/2008, Bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Trà Vinh cũng đã tuyên y án sơ thẩm. Ngày 30/9/2009, Tòa hình sự TAND tối cao đã có Quyết định giám đốc thẩm số 29, hủy 2 bản án trên vì không đủ chứng cứ buộc tội Lý Quốc Nghiệp.
Đấy là một vụ án oan sai được xử lý khá nhanh chóng, còn nhiều vụ khác điều tra, xét xử doanh nhân nhiều vòng kéo dài cả chục năm.
Nhiều chuyên gia đầu ngành về pháp luật đã từng than thở rằng: Bộ luật Hình sự đã biến thẩm phán thành rô-bốt. Vì xử nhẹ, xử khoan hồng vượt quá chỉ tiêu thì vừa có nguy cơ sai luật, vừa bị kiểm điểm, nghi ngờ vì tiêu cực hay có gì đó sai trái bất thường.
Với cách quy định của pháp luật hình sự và cả hành chính như hiện nay, thì công lý, đạo lý, nhân đạo, công bằng, lẽ phải và kể cả nguyên tắc suy đoán vô tội, không thể nào vượt qua được yêu cầu thượng tôn pháp luật đã bị gắn chặt vào những con số vô hồn như số tiền, số phần trăm, số mét vuông, số gam, số ngày, số người và nhiều nhiều con số khác. Dường như, chúng ta quyết định số phận pháp lý và mức hình phạt của mỗi con người, chủ yếu dựa vào từng con số, chứ không phải bằng yếu tố chính là hành vi nguy hiểm của của họ gây ra cho xã hội. Có lẽ, để chống làm sai, tiêu cực, lạm dụng nên người ta đã thiết kế ra các điều luật quá cụ thể, quá chi tiết bằng cách dựa vào và chẻ nhỏ những con số, nhưng thực tế cho thấy không hiệu quả, xa rời bản chất.
Đột phá từ tư duy
Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68 của Bộ Chính trị mới đây đã mở ra một hướng cải tổ hệ thống luật pháp vì con người, theo đúng bản chất, mục tiêu, chứ không máy móc dựa vào hình thức và những con số kiểu trên. Cùng với đó, luật sẽ chỉ quy định nguyên tắc và yêu cầu cấp tốc sửa đổi Bộ luật Hình sự cùng với một loạt luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh.
Quan trọng nhất là định hướng nhấn mạnh dứt khoát không hình sự hóa những quan hệ dân sự – kinh tế – hành chính. Bộ luật Hình sự quy định, tội phạm là hành vi phạm pháp “nguy hiểm cho xã hội”. Còn Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định, vi phạm hành chính cũng là hành vi phạm pháp “mà không phải là tội phạm”. Như vậy, để phân biệt tội phạm và không vi phạm hành chính thì mấu chốt là phải đánh giá sự nguy hiểm trong từng vụ việc cụ thể, chứ không phải nâng lên đặt xuống mấy con số thì trở thành tội phạm và ngược lại.
Một trong những tiền đề quan trọng để có thể đưa đất nước bước vào Kỷ nguyên mới, chính là việc nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật đầu tư, kinh doanh nói riêng theo Nghị quyết số 66, trong đó có việc thể chế hóa triệt để những định hướng trong Nghị quyết số 68.
Hầu hết sai phạm liên quan đến kinh tế trong Bộ luật Hình sự hiện hành đều có thể xử lý bằng xử phạt hành chính thay vì hình sự, mà không làm giảm tác dụng, hiệu quả răn đe và phòng ngừa vi phạm. Chỉ khi không thể xử lý được bằng hành chính thì mới buộc phải tính đến việc xử lý bằng hình sự. Đặc biệt, không nên coi mọi sai phạm kinh tế, dù nghiêm trọng, đều là tội phạm.
Hai Nghị quyết được triển khai đúng đắn, nhanh chóng và triệt để thì sẽ giải toả được nỗi lo sợ tù tội canh cánh, sẽ góp phần quan trọng vào việc tăng tốc nền kinh tế, đưa đất nước bước vào Kỷ nguyên mới một cách tự tin và thành công rực rỡ. Chúng ta có niềm tin xác đáng rằng, đó sẽ là Kỷ nguyên không chỉ phát triển về kinh tế, xã hội mà còn mang lại cả niềm tin công lý và phát triển con người.