Điện gió ngoài khơi cần cơ chế mới
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam có tiềm năng điện gió ngoài khơi (ĐGNK) thuộc vào hàng tốt nhất khu vực châu Á và có thể lên tới 600GW.
>>>Đẩy mạnh phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam
Chia sẻ với DĐDN, ông Bùi Vĩnh Thắng, Giám đốc quốc gia tại Việt Nam của Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu (GWEC) cho rằng, điện gió ngoài khơi là một trong những ngành năng lượng phát triển nhanh nhất trên thế giới, và được coi là động lực cho quá trình chuyển đổi năng lượng toàn cầu.
- Tiềm năng điện gió ngoài khơi ở Việt Nam được đánh giá là rất lớn, tuy nhiên hiện chưa có dự án điện gió ngoài khơi đúng nghĩa nào được lắp đặt. Ông có thể cho biết các thách thức khi phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam?
Trong dự thảo Quy hoạch điện 8 (QHĐ 8) mới nhất, mục tiêu quy mô điện gió ngoài khơi (ĐGNK) của Việt Nam đạt 7 GW vào năm 2030. Tuy nhiên để hiện thực hóa mục tiêu này là một thách thức lớn, trong đó các yếu tố chính cần được giải quyết bao gồm: một cơ chế mua sắm đơn giản, được triển khai nhanh chóng và áp dụng cho các dự án đầu tiên quy mô 4-5 GW. Một lộ trình rõ ràng để triển khai đấu thầu nhằm thực hiện quy mô 2-3 GW còn lại trong thập kỷ này.
Tiếp theo là một quy trình cấp phép rõ ràng, có phối hợp và sắp xếp hợp lý để đảm bảo các dự án có thể được thực hiện đúng thời hạn, đảm bảo độc quyền không gian biển cho công tác phát triển. Một phương pháp tiếp cận quy hoạch không gian biển (QHKGB) cho phép xây dựng cơ chế tinh gọn để đảm bảo dự án có thể được triển khai trong vài năm tới.
Cải thiện khả năng vay vốn cho hợp đồng mua bán điện (PPA) để thu hút tài chính quốc tế, đây là việc cần thiết để thu hút lượng vốn đầu tư lớn cho lĩnh vực điện gió ngoài khơi. Bởi ĐGNK cần nguồn vốn đầu tư lớn hơn nhiều so với điện gió trên bờ.
Để so sánh, nhu cầu đầu tư cho một dự án ĐGNK quy mô 500 MW điển hình là khoảng 1,5 tỷ USD (hay 3 tỷ USD/GW), trong khi một dự án trên bờ thường cần ít hơn 100 triệu USD (1,5 triệu USD/MW với quy mô dự án thường dưới 70 MW). Do đó, nhiều khả năng sẽ cần sự tham gia của các ngân hàng quốc tế vào lĩnh vực ĐGNK.
Quy hoạch lưới điện và nâng cấp hệ thống vận hành để tạo điều kiện tích hợp ĐGNK, có cân nhắc tới vị trí, cũng như kế hoạch và cơ chế cụ thể về khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư vào hệ thống truyền tải để giải quyết các thách thức về truyền tải trong thời gian tới.
- Theo ông thì vấn đề cấp bách nhất hiện nay trong quá trình thủ tục cần được giải quyết là gì ?
Khung pháp lý và các quy định cho ngành điện gió cần được thảo luận chi tiết hơn. Với lịch trình xây dựng và phát triển trung bình là 6-8 năm cho các dự án khi tất cả các quy định đã rõ ràng, để xây dựng được các dự án ĐGNK đầu tiên trước năm 2030 thì sẽ cần có sự tham vấn và xây dựng khuôn khổ chính sách và quy định bắt đầu ngay từ hôm nay.
Để khởi động dự án, nhà phát triển phải có giấy phép khảo sát địa điểm cho khu vực dự án. GWEC khuyến nghị cấp phép khảo sát địa điểm độc quyền cho các dự án ĐGNK. Điều này phù hợp với các đề xuất chính sách trên toàn cầu. Với tính độc quyền, các nhà phát triển sẵn sàng chi hàng chục triệu USD cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của các dự án gió ngoài khơi.
Thực tiễn một số công ty thành viên của chúng tôi đã có Giấy phép khảo sát (GPKS) hoặc đã nộp hồ sơ đăng ký khảo sát các địa điểm theo “cơ chế hiện có” (Nghị định 11/2021). Trong khi chờ đợi một “cơ chế mới” từ việc sửa đổi nghị định 11/2021, Chính phủ sẽ có một cơ chế chuyển tiếp “cơ chế hiện có” đối với một số hồ sơ xin GPKS đã gần hoàn tất quá trình xin ý kiến và thẩm định.
Bên cạnh đó, để đảm bảo rằng các dự án có thể được xây dựng đúng thời hạn, GWEC đặc biệt khuyến nghị rằng các tiêu chí kỹ thuật, tài chính và mức độ cam kết và sẵn sàng của các nhà phát triển phải được coi là tiêu chí áp dụng khi Chính phủ lựa chọn giấy phép khảo sát.
- Tiềm năng của Việt Nam trong lĩnh vực này bị cản trở bởi một số hạn chế. Ông có thể chia sẻ thêm về những kinh nghiệm từ các nước khác không?
GWEC đã chứng kiến các quốc gia xây dựng các ngành công nghiệp ĐGNK theo những cách khác nhau. Điều kiện của mỗi quốc gia là khác nhau và mỗi quốc gia có các mô hình và chính sách riêng phù hợp với các điều kiện đó.
Tuy nhiên, chúng tôi không khuyến nghị Việt Nam áp dụng chính sách của bất kỳ quốc gia nào một cách rập khuôn. Thay vào đó, chúng tôi khuyến nghị Chính phủ nên học hỏi những tấm gương của các nước khác, cả thành tích và sai lầm của họ, sau đó sử dụng những bài học kinh nghiệm đó để đưa ra chính sách phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam.
Ví dụ: chiến lược của Đài Loan đối với ĐGNK có rất nhiều yêu cầu đối với nội dung nội địa hóa. Chiến lược này giúp họ phát triển chuỗi cung ứng địa phương nhưng khiến họ khó có thể có ĐGNK rẻ hơn trong ngắn hạn. Một ví dụ khác, Vương quốc Anh sử dụng hợp đồng chênh lệch (CFD) Nó mang lại sự minh bạch và cạnh tranh, giúp đẩy giá xuống, nhưng nó cần rất nhiều điều kiện và khuôn khổ pháp lý để sẵn sàng, bao gồm thị trường mua điện đã phát triển.
- Xin cảm ơn ông!
Có thể bạn quan tâm
Lựa chọn nhà đầu tư điện gió ngoài khơi: Cần đấu thầu minh bạch
23:21, 07/12/2022
Phát triển điện gió ngoài khơi ở Việt Nam: Tiềm năng và thách thức
04:30, 03/12/2022
Nhiều thách thức phát triển điện gió ngoài khơi
03:20, 27/11/2022
Phát triển điện gió ngoài khơi: Cần sớm hoàn thiện khung pháp lý
11:00, 07/11/2022