Phát triển vùng KTTĐ phía Nam: Kỳ III - Tạo "nguồn" từ đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ
Tại TP.HCM nói riêng và Việt Nam nói chung, khoa học công nghệ chưa cho thấy vai trò dẫn dắt và là đầu tàu trong hoạt động phát triển sản xuất. Thay đổi điều này sẽ tạo động lực cho vùng.
>>Phát triển vùng KTTĐ phía Nam: Kỳ I - Yêu cầu đột phá hậu Covid-19
Tại TP.HCM nói riêng và Việt Nam nói chung, có thể thấy khoa học công nghệ (KHCN) chưa cho thấy vai trò dẫn dắt và là đầu tàu trong hoạt động phát triển sản xuất khi mà năng lực và trình độ công nghệ vẫn còn hạn chế, đặc biệt là càng gặp khó khăn hơn trong làn sóng của cuộc CMCN 4.0.
Những rào cản, thách thức
Báo cáo của Bộ Công Thương (2021) cũng đã chỉ ra một số rào cản, thách thức trong quá trình phát triển trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, cụ thể:
Nền tảng công nghệ vẫn còn lạc hậu: Mức đầu tư cho hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp ở Việt Nam nhỏ hơn 0,5% doanh thu, trong khi đó, Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%; tỷ lệ đổi mới máy móc, thiết bị hàng năm chỉ khoảng 10% trong 5 năm vừa qua, trung bình các nước khác trong khu vực là 15-20%.
Năng suất lao động còn thấp và chưa hoàn toàn dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo: Công nghiệp là ngành có mức tăng năng suất lao động thấp nhất trong các ngành kinh tế, hoạt động đổi mới công nghệ chậm và đội ngũ lao động tay nghề thấp, trong đó có khoảng 28,54% lao động không có trình độ chuyên môn.
Ngành công nghiệp cơ bản và công nghiệp hỗ trợ còn phụ thuộc quá nhiều vào bên ngoài: Phần lớn các nguyên liệu, vật liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp lớn đều nhập khẩu và phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc. Năng lực tự chủ chưa cao, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mới chỉ chiếm khoảng 0,3% toàn cầu, thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN, điển hình như Indonesia chiếm khoảng 1,6%, Thái Lan chiếm khoảng 1%.
Trong chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam mới chỉ là mắc xích trung gian, là nơi gia công để xuất khẩu: Tỷ suất sinh lợi đạt được chỉ ở mức khoảng 5-10% vì phần lớn do giá trị gia tăng thấp, chủ yếu là gia công và lắp ráp. Trong khi các công đoạn có thể mang giá trị cao lại phần lớn ở nước ngoài như khâu thượng nguồn là thiết kế, nghiên cứu phát triển, quảng cáo, phân phối, … và khâu hạ nguồn là việc cung cấp nguyên liệu, vật liệu, máy móc thiết bị, và các dịch vụ thuộc ngành công nghiệp hỗ trợ.
Các doanh nghiệp trong nước chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, kém lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Quy mô vốn hạn chế cũng dẫn đến khả năng mở rộng sản xuất và mức độ ứng dụng KHCN, ĐMST thấp hơn, việc chuyển giao công nghệ và kết nối giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài còn giới hạn.
Không gian các ngành công nghiệp chưa phát huy hết hiệu quả: Khả năng khai thác lợi thế cạnh trạnh của các vùng, khu công nghiệp còn thấp khi mà việc trục trặc ở khâu chuyên môn hóa, liên kết vùng và chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, cũng như sự dẫn dắt của các vùng kinh tế trọng điểm.
Để bắt kịp với xu thế của cuộc CMCN 4.0, thực hiện chuyển đổi số là tất yếu đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều định hướng, chiến lược và đã được cụ thể hóa. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi còn nhiều rào cản, thách thức cần giải quyết:
>>Phát triển vùng KTTĐ phía Nam: Kỳ II - Thách thức nhìn từ tăng trưởng của TP. HCM
Hành lang pháp lý và môi trường thể chế chính sách vẫn chưa chặt chẽ, đồng bộ và chưa theo kịp sự phát triển của các mô hình kinh doanh trong nền kinh tế số hiện nay: Việt Nam có xuất phát điểm cho phát triển kinh tế số chậm hơn so với các nước trong khu vực. Nhận thức, kiến thức của cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp và người dân chưa thật sự thống nhất và không đồng đều. Một minh chứng điển hình đó là sự “đuối sức” và “lúng túng” của các cơ quan quản lý về thu thuế, quản lý hình thức kinh doanh qua mạng, kinh doanh xuyên biên giới, và các mô hình đổi mới sáng tạo.
Năng lực nội tại của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn so với khu vực về đổi mới, sáng tạo: Phần lớn các đăng ký sáng tạo của Việt Nam đến từ các công dân nước ngoài và số lượng này thường cao gấp từ 8 đến 10 lần so với công dân trong nước (WIPO, 2019).
Mức độ sẵn sàng cho số hóa của Việt Nam còn thấp: Năm 2019, mức độ sẵn sàng cho số hóa của Việt Nam chỉ đứng thứ 70/141 quốc gia, với điểm mức là 12,06/25 điểm tối đa, chỉ cao hơn không đáng kể so với trung bình của thế giới (11,90) và kém hơn các nước trong khu vực như Singgapore (20,26), Malaysia (14,31) và Thái Lan (13,21).
Thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao: Thách thức không nhỏ là chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam thật sự còn yếu, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Hạ tầng viễn thông vẫn còn hạn chế. Một trong những nguyên liệu quan trọng của nền kinh tế số đó chính là dữ liệu và cách truyền tải dữ liệu. Việc thu thập và sử dụng dữ liệu hiện nay chưa được quy định rõ ràng.
Thiếu tầm nhìn về chuyển đổi số: Báo cáo của Cisco về “Chỉ số phát triển kỹ thuật số của doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương” cho thấy có hơn 70% (trong đó có 72% SMEs) tại Việt Nam trong năm 2020 đang tìm cách chuyển đổi số nhằm đưa các sản phẩm và dịch vụ mới ra thị trường, một mức tăng đáng kể so với mức 32% của năm 2019. Tuy nhiên, các doanh nghiệp, đặc biệt là SMEs còn thiếu tầm nhìn về chuyển đổi số. Trong đó, 17% doanh nghiệp còn thiếu kỹ năng số và nhân lực, 16,7% thiếu nền tảng công nghệ thông tin đủ mạnh để cho phép chuyển đổi số, 15,7% thiếu tư duy kỹ thuật số. Việc thiếu tầm nhìn và tư duy về chuyển đổi số làm cho doanh nghiệp không xác định rõ được mục tiêu của chuyển đổi số. Đây cũng chính là lý do mà việc chuyển đổi số vẫn chủ yếu diễn ra ở các doanh nghiệp lớn, đa số SMEs vẫn phản ứng thụ động với những thay đổi của thị trường và không thật sự cho thấy nỗ lực chuyển đổi số trong doanh nghiệp.
Tư duy ngại thay đổi: Đây được coi là một trong những rào cản lớn nhất cho chuyển đổi số của doanh nghiệp. Vẫn tồn tại một số doanh nghiệp xem chuyển đổi số là công cụ để “marketing” thay vì hướng đến mục tiêu thay đổi chính mình. Vì lẽ đó, chỉ có những doanh nghiệp nào dám thay đổi, dám thử nghiệm những ý tưởng mới và chấp nhận từ bỏ các “mỏ neo” truyền thống mới có thể thích ứng vời CMCN 4.0. Có như vậy, các mô hình kinh doanh mới dựa trên công nghệ và đổi mới sáng tạo mới có thể được áp dụng và chứng tỏ mức độ hiệu quả, cũng lan tỏa đến cộng đồng, đây là bước đi quan trọng của con đường chuyển đổi số toàn diện.
Hạn chế về năng lực đội ngũ: Có thể thấy việc tuyển dụng lao động có kỹ năng sử dụng công nghệ đang gặp khó khăn ở các doanh nghiệp, riêng lĩnh vực thương mại điện tử đã cho thấy chỉ có khoảng 30% doanh nghiệp đáp ứng đủ nguồn nhân lực này (VECOM, 2020). Xu hướng cho thấy các doanh nghiệp lớn có lợi thế hơn so với SMEs trong quá trình tuyển dụng.
Hạn chế về ngân sách và thời gian: Các doanh nghiệp cũng đang gặp trở ngại ở ngân sách đầu tư cho hoạt động chuyển đổi số, đặc biệt là SMEs. Điển hình như các doanh nghiệp lớn có mức chi đầu tư cao nhất khoảng 50% tổng vốn đầu tư đối với thương mại điện tử vào việc xây dựng, vận hành website hoặc ứng dụng di động thì số liệu này ở SMEs ở mức dưới 20% (VECOM, 2020).
Chính sách để thu hút nguồn lực phát triển
Quá trình phát triển kinh tế bền vững trong xu hướng hiện nay đòi hỏi phải thu hút nguồn lực về vốn lẫn con người, tuy nhiên, phải gắn liền với nền tảng KHCN và ĐMST. Trong đó, phải khai thác triệt để các thành tựu từ cuộc CMCN 4.0, hướng đến huy động và phát huy các nguồn lực nhằm tái cấu trúc phương thức sản xuất, kinh doanh, vận hành, và tối ưu hóa chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, cũng như ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm có giá trị gia tăng cao, và ứng dụng hiệu quả nền tảng KHCN và ĐMST. Nội dung này nhất quán với những mục tiêu trong Nghị quyết số 54/NQ-CP về “Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025” do Chính phủ ban hành ngày 12/04/2022. Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một số nguyên tắc gợi ý chính sách để thu hút nguồn lực cho TP.HCM, tập trung vào tài lực, nhân lực, và các cơ chế chính sách liên quan đến đất đai, tỷ lệ điều tiết ngân sách, bồi dưỡng nguồn thu, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, v.v.
Với nguồn lực cho các dự án đầu tư công, cần tạo sự lan tỏa mạnh mẽ nhằm kích thích tổng cầu. Trong đó, cơ quan đại diện vốn nhà nước tham gia thực hiện các dự án đầu tư công với nguồn “vốn đệm” từ ngân sách nhà nước, đồng thời kết hợp và chủ động tìm kiếm và đề xuất nhà đầu tư từ khu vực tư nhân. Tránh tình trạng trông chờ vào nguồn vốn ngân sách nhưng phải linh hoạt, đa dạng, tháo gỡ những khó khăn đối với các hình thức chi trả cho nhà đầu tư theo mô hình đối tác công tư.
Vai trò thu hút vốn đòi hỏi tính hiệu quả của các công ty đầu tư tài chính nhà nước để thực hiện xây dựng các công trình, dự án phát triển kinh tế xã hội theo danh mục các lĩnh vực đầu tư kết cấu hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội ưu tiên phát triển của TP.HCM giai đoạn 2021-2025 đã được ban hành. Cập nhật thường xuyên các danh mục dự án để lên phương án kêu gọi đầu tư từ nhiều chủ thể khác nhau, đặc biệt là dự án nhà ở xã hội phục vụ cho việc thu hút công nhân quay trở lại làm việc
Để thu hút nguồn lực về vốn, cần phải chủ động tiến hành rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, cơ sở quy hoạch hạ tầng cho dịch vụ, công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, hệ thống cảng, logistics, v.v. Hoàn thiện và đổi mới cơ chế chuẩn bị đất cho nhà đầu tư, thí điểm đối với dự án cải tạo và phát triển đô thị theo định hướng tích hợp từ nguồn lực trong nước lẫn nước ngoài, từ nguồn lực của nhà nước lẫn tư nhân.
Rà soát các dự án tồn đọng và các dự án tiềm năng để tiến hành tổ chức các buổi xúc tiến, lấy ý kiến đầu tư, kêu gọi các nhà đầu tư nghiên cứu, đầu tư các dự án trong danh mục của TP.HCM; xúc tiến đầu tư vào các lĩnh vực như kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, v.v. Cần chủ động trong việc tiếp cận,tìm hiểu và hỗ trợ các đối tác, tập đoàn lớn, công nghệ cao, chủ động phương án về quỹ đất, mặt bằng, hạ tầng kết nối, nhân lực, v.v. Chú trọng công tác đối thoại chính sách, xúc tiến đầu tư tại chỗ, nắm bắt tình hình, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp FDI đã và đang có nhu cầu đầu tư.
Để bổ sung nguồn thu cho ngân sách TP.HCM, cần thực hiện rà soát quỹ đất công do các cơ quan, đơn vị thuộc thành phố quản lý. Nếu không có nhu cầu tiếp tục sử dụng, thì thực hiện phương án bán đấu giá. Đồng thời, cần tăng cường quản lý đất đai, đảm bảo việc sử dụng đất đúng mục đích, phù hợp với quy hoạch. Trong trường hợp đất thuê nhà nước vi phạm, cần xem xét thu hồi theo quy định và tổ chức đấu giá để tránh lãng phí.
Để đảm bảo nguồn thu đúng, đủ, và kịp thời, cần tăng cường các biện pháp quản lý và bồi dưỡng nguồn thu, giải quyết các vướng mắc trong lĩnh vực thuế và tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất kinh doanh phát triển. Ngoài ra, phải phát huy hiệu quả nguồn kiều hối tham gia vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời phát triển hệ thống chỉ trả và đa dạng hóa các hình thức trên nền tảng công nghệ. Kiến tạo chính sách để khuyến khích chuyển tiền về nước nhưng phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài và người thụ hưởng. Ngoài ra, rà soát và đánh giá tình hình thu chi ngân sách, từ đó đưa ra các biện pháp phát hành trái phiếu chính quyền địa phương tạo thêm nguồn vốn cho đầu tư.
Kiến nghị tăng tỷ lệ điều tiết ngân sách để lại cho TP.HCM từ năm 2023 trở đi nhằm cung cấp nguồn lực cho TP.HCM đầu tư vào các hạ tầng kinh tế kỹ thuật, giao thông, số hóa, v.v. Điều này sẽ giúp thành phố phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại, đồng bộ, thu hút các nhà đầu tư ngoài nhà nước, mở rộng các khu công nghệ cao và tạo ra các khu công nghiệp mới với chiến lược thu hút nhà đầu tư công nghiệp hiện đại. Cần tiếp tục khai thác cơ chế đặc thù từ Nghị Quyết số NQ 54/QH của Quốc hội liên quan đến đất đai, cổ phần hóa, phí lệ phí, v.v.
Đổi mới chính sách đầu tư nhằm thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân cho quá trình phát triển của ngành, đón đầu các xu hướng đầu tư, dịch chuyển đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là các chuỗi cung ứng hàng công nghiệp trên thế giới và ở khu vực. Hướng đến các dự án FDI có nền tảng KHCN và ĐMST. Thiết lập các chính sách ưu đãi tín dụng, thuế, sử dụng đất đai, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, sử dụng dịch vụ công, tạo thuận lợi về thị trường, về quan hệ quốc tế, về đăng ký bản quyền và bảo vệ sở hữu trí tuệ, cải cách thủ tục hành chính, v.v.
Với mục tiêu trở thành trung tâm tài chính, quan trọng nhất chính là kiến tạo chính sách và nới lỏng sự kìm hãm trong xu hướng phát triển kinh tế số gắn liền với tài chính toàn diện. Khi đó, cơ chế thí điểm như hình thức “sandbox” đối với các công ty công nghệ sẽ giúp cơ quan quản lý hiểu và nắm rõ cách thức vận hành và rủi ro có thể có đối với những sản phẩm, mô hình từ FinTech nói riêng và chiến lược toàn diện tài chính nói chung. Trong đó có thể hướng đến thí điểm hai nhóm dịch vụ tài chính kỹ thuật số chính, bao gồm: (1) Thanh toán kỹ thuật số, thanh toán bù trừ; (2) Tiền gửi, cho vay, và huy động vốn (bao gồm cả chuyển đổi số của tổ chức tài chính truyền thống và mô hình mới từ tổ chức tài chính thay thế). Các hướng dẫn cơ chế và cách thức triển khai “sandbox” áp dụng cho các vấn đề mới phát sinh, chưa có luật quy định cần có văn bản cụ thể, không chỉ áp dụng riêng trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Trong đó, nghiên cứu về luật đô thị đặc biệt là những bước đi đầu tiên để tạo không gian phát triển.
Các nguồn lực phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ mới phải được ưu tiên nhằm thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp dịch vụ có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao. Điển hình như Công viên Phần mềm Quang Trung, mục tiêu là phát triển thành “Tech Hub”, đây là nơi nghiên cứu, ứng dụng, cung cấp và chuyển giao các giải pháp công nghệ cho cả nước và khu vực Đông Nam Á, góp phần phát triển ngành công nghệ thông tin trong nước và nâng cao hình ảnh thương hiệu đối với cộng đồng quốc tế. Đối với các khu công nghệ cao, phải thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu triển khai, đào tạo, ươm tạo, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và xây dựng năng lực nội sinh công nghệ cao, phát triển sản phẩm chủ lực theo định hướng chuyển từ gia công lắp ráp sang chế tạo, nâng cao giá trị gia tăng, sản xuất.
Chính phủ cần sớm triển khai các đề án, chính sách để hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi số, ứng dụng KHCN, tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs), đồng thời ưu tiên thí điểm tại các tập đoàn, doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp công nghệ thông tin, các doanh nghiệp nghiên cứu đổi mới sáng tạo. Chính phủ và doanh nghiệp phải luôn sẵn sàng chấp nhận những cái mới, khuyến khích đổi mới và sáng tạo, hỗ trợ cung cấp thông tin và tài trợ ngân sách cho các hoạt động chuyển đổi số trọng tâm, tháo gỡ các thủ tục hành chính còn vướng mắc. Tuy nhiên, những điều này cần phải có một khung pháp lý chung để kiểm soát và quản lý, đồng thời phải đáp ứng định hướng phát triển kinh tế - xã hội đề ra. Do đó, phải triển khai đánh giá và ghi nhận các ý kiến đóng góp để hoàn thiện hành lang pháp lý.
Để đảm bảo an ninh kinh tế trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, cần phải khắc phục tình trạng sử dụng các quỹ đầu tư, công ty sân sau của nước ngoài có nguồn gốc từ các thiên đường thuế và các nhóm lợi ích trong nước để đầu tư vào các công ty bất động sản, dự án của Việt Nam nhằm chiếm lĩnh, thâu tóm các dự án bất động sản. Điều này có thể dẫn đến sự thao túng thị trường và che giấu nguồn tiền bất hợp pháp, đánh lạc hướng dư luận trong việc đầu tư dự án. Phải kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo an toàn và sự minh bạch trong hoạt động đầu tư.
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tập trung nâng cao nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đặc biệt là liên quan đến an ninh mạng, trí tuệ nhân tạo (AI), máy học (machine learning), Internet vạn vật (IoT), chuỗi khối (blockchain), và thực tế ảo/thực tế tăng cường (VR/AR). Việc bổ sung kịp thời đội ngũ nhân lực này là nhân tố quyết định để bắt kịp sự phát triển của nền kinh tế dựa trên KHCN và ĐMST. Những chương trình hành động cụ thể trong nước và hợp tác với nước ngoài là cần thiết để nguồn nhân lực tại Việt Nam có thể tiếp cận với những công nghệ mới, là những hạt nhân để thúc đẩy chuyển đổi số trong xã hội. Các tổ chức, doanh nghiệp không chỉ hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp công nghệ trong nước mà phải mở rộng ra phạm vi toàn cầu, nhằm hướng đến đội ngũ lao động đủ khả năng tiếp thu và ứng dụng những công nghệ chuyển giao, công nghệ mới cho Việt Nam. Phải đáp ứng tinh thần trong chiến lược thu hút nhân tài của kết luận 14/KL-BCT ngày 22 tháng 9 năm 2021 của Bộ Chính trị về khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo.
Có thể bạn quan tâm