Kịch bản nào cho nợ công?

Thu Hoài 22/09/2018 05:00

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) vừa trình Chính phủ báo cáo về tình hình vay và sử dụng các nguồn vốn của Chính phủ. Theo đó, khi xây dựng kịch bản nợ công cần bám sát các kịch bản tăng trưởng.

Kịch bản nợ công cần được xây dựng sát với kịch bản tăng trưởng

Kịch bản nợ công cần được xây dựng sát với kịch bản tăng trưởng

Cơ cấu huy động đã được cải thiện

Bộ KHĐT cho biết, trong giai đoạn 2011-2017, Chính phủ tiếp tục huy động từ các nguồn vay trong nước, chủ yếu là trái phiếu Chính phủ (TPCP), ngoài ra còn có các nguồn huy động khác, như vay nước ngoài, chủ yếu là vay ODA và vay ưu đãi nước ngoài từ các nhà tài trợ.

Có thể bạn quan tâm

  • Dư nợ công cuối năm 2018 khoảng 61,4% GDP

    Dư nợ công cuối năm 2018 khoảng 61,4% GDP

    18:00, 13/09/2018

  • Nếu nợ công tiếp tục tăng cao...

    Nếu nợ công tiếp tục tăng cao...

    05:23, 16/08/2018

  • Nợ công Việt Nam đang trong tình trạng nào?

    Nợ công Việt Nam đang trong tình trạng nào?

    05:32, 04/07/2018

  • Quản lý nợ công: Nguy cơ không phải con số mà ở quan điểm

    Quản lý nợ công: Nguy cơ không phải con số mà ở quan điểm

    08:54, 23/03/2018

Quy mô vay trong nước của Chính phủ tăng nhanh, từ 235.000 tỷ đồng năm 2011 lên 342.000 tỷ đồng năm 2017, trong khi quy mô vay nước ngoài có xu hướng giảm, cơ cấu vay thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng ODA và tăng tỷ trọng vốn vay ưu đãi.

Từ năm 2015, vay trái phiếu Chính phủ đã được điều chỉnh theo hướng kéo dài kỳ hạn (từ 3 năm trở lên), nhờ đó, kỳ hạn phát hành TPCP trung bình tăng từ 3,9 năm vào năm 2011 lên 12,74 năm vào năm 2017 trong khi đó, lãi suất bình quân trái phiếu Chính phủ đã giảm từ 12,01%/năm vào năm 2011 xuống 5,98%/năm trong năm 2017. Việc kéo dài kỳ hạn và giảm lãi suất đã góp phần giảm các rủi ro về tái cấp vốn và rủi ro lãi suất đối với danh mục nợ Chính phủ.

Tổng vốn vay nước ngoài của Chính phủ trong giai đoạn 2016-2017 đạt 9.198 triệu USD, trong đó, vốn vay ODA: 6.781 triệu USD, vay ưu đãi: 2.200 triệu USD, viện trợ không hoàn lại là 216,8 triệu USD. Với sự nỗ lực và chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Việt Nam đã thu hút được hết số vốn ưu đãi tín dụng (IDA) của Ngân hàng Thế giới phân bổ cho Việt Nam trước khi kết thúc nguồn vốn này vào ngày 1/7/2017.

Theo báo cáo của Bộ KHĐT, trong giai đoạn 2016-2017, để kiểm soát tốc độ tăng các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh để đảm bảo an toàn nợ công, Bộ Tài chính đã triển khai một số biện pháp theo hướng siết chặt việc cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ. Nhờ đó, tốc độ tăng dư nợ bảo lãnh Chính phủ đã giảm từ 27,5% năm 2011 xuống 1,4% năm 2016, góp phần đảm bảo an toàn nợ công, an ninh tài chính quốc gia.

Đối với vay trả nợ của chính quyền địa phương (vay từ nguồn tồn ngân Kho bạc Nhà nước, phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ nguồn Chính phủ về cho vay lại và vay khác) là 13.508 tỷ đồng năm 2016 và năm 2017, con số ước là khoảng 14 nghìn tỷ đồng.

Xây dựng kỹ kịch bản nợ công

Từ thực tế công tác huy động và giai ngân các khoản vốn vay nói trên, Bộ KHĐT cho rằng, việc xây dựng kịch bản nợ công trong tương lai cần bám sát các kịch bản phát triển kinh tế. Cụ thể: trong giai đoạn 2018-2020, Bộ này dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể diễn ra theo 2 kịch bản: cơ sở và cao. Trong đó, kịch bản cơ sở với nhiều khả năng xảy ra nhất.

Cụ thể, ở kịch bản cơ sở với giả thiết tăng trưởng kinh tế thế giới tiếp tục ổn định và duy trì tăng trưởng như những năm gần đây; đầu tư khu vực nhà nước được cải thiện hơn cả về tốc độ và hiệu quả; điều hành chính sách hợp lý, thủ tục pháp lý và môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện, tốc độ tăng đầu tư trung bình của giai đoạn là 7%... thì mô hình kinh tế phần nào được chuyển đổi nhưng về cơ bản vẫn là nền kinh tế tăng trưởng dựa vào vốn và lao động giá rẻ.

Và, nếu Việt Nam áp dụng chính sách tiền tệ và tỷ giá tương đối linh hoạt để duy trì ổn định kinh tế vĩ mô cùng với việc các hiệp định thương mại có hiệu lực sẽ giúp đầu tư và xuất khẩu Việt Nam cải thiện thì tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2018-2020 có thể đạt mức 6,53%, lạm phát duy trì ở mức khoảng 3,92%.

Với kịch bản cao, khi nền kinh tế đạt được những kỳ vọng đã đặt ra như kịch bản cơ sở, nhưng tiến trình cải cách cũng như chuyển đổi nền kinh tế diễn ra mạnh mẽ hơn. Cùng với đó là năng suất của nền kinh tế, hiệu quả đầu tư công được cải thiện; những yếu tố gây bất ổn kinh tế vĩ mô được giải quyết triệt để... thì không những nền kinh tế có thể đạt mức tăng trưởng và ổn định cao hơn (tương ứng tăng trưởng kinh tế và lạm pháp trung bình của giai đoạn là 6,75% và 4,71%) mà còn có thể duy trì được sự phát triển bền vững, tạo tiền đề phát triển cho những năm tiếp theo.

Với các kịch bản về tăng trưởng kinh tế và cơ cấu nguồn vốn đầu tư trong giai đoạn tới như giả thiết nói trên thì dự báo mức nợ công/GDP theo kịch bản cơ sở trong năm 2018 sẽ ở mức 63,92%, năm 2019 là 63,46% và năm 2020 là 62,58%.

Như vậy, ở kịch bản cơ sở sẽ đảm bảo nợ công và nợ Chính phủ vẫn nằm trong giới hạn chỉ tiêu quản lý nợ công đề xuất. Tuy nhiên, việc thực hiện kịch bản này cũng cần tính đến những yếu tố rủi ro, nhất là rủi ro về tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với mục tiêu đặt ra trong khi không điều chỉnh quy mô vay nợ công hàng năm có thể dẫn tới các chỉ tiêu nợ vượt ngưỡng cho phép.

Thu Hoài