Tín dụng bền vững
Với tốc độ tăng trưởng đạt 25%/năm, tín dụng xanh tại Việt Nam đã có những bước phát triển tích cực, được kỳ vọng là kênh huy động vốn hiệu quả cho phát triển kinh tế xanh và tăng trưởng bền vững.
>>Xây dựng cơ chế thúc đẩy tín dụng xanh
Trao đổi với DOANH NHÂN, TS. Cấn Văn Lực - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, Chuyên gia Kinh tế trưởng ngân hàng BIDV nhận định: tín dụng bền vững (bao gồm tín dụng xanh và tín dụng đánh giá tác động môi trường) trở thành xu thế phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Việt Nam đang thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh và đón nhận nguồn vốn lớn ưu tiên cho các dự án xanh nhằm giảm cường độ phát thải khí nhà kính và giảm tác hại cho môi trường.
- Theo Ngân hàng Thế giới, trong giai đoạn 2022 - 2040, Việt Nam cần đầu tư gần 370 tỷ USD, tương đương 6,8% GDP/năm để thực hiện lộ trình tăng trưởng xanh, trong đó, 65% nguồn lực đầu tư đến từ khu vực tư nhân trong và ngoài nước. Tài chính xanh là giải pháp để Việt Nam huy động vốn đầu tư trên cho mục tiêu phát triển kinh tế xanh, thưa ông?
Việt Nam đang bắt đầu bước vào kỷ nguyên phát triển kinh tế xanh. Để hỗ trợ thúc đẩy kinh tế xanh, các nguồn lực tài chính đã và đang được huy động một cách tích cực, hiệu quả cho các doanh nghiệp và các hoạt động sản xuất, kinh doanh "xanh".
Có thể thấy, Việt Nam là một trong những quốc gia đang thu hút nhiều nguồn vốn xanh khi các cơ chế, chính sách cho thị trường tài chính xanh tại Việt Nam đang được dần hoàn thiện với từng loại công cụ như trái phiếu xanh - xã hội - bền vững (GSS), cổ phiếu xanh, thị trường carbon... Môi trường pháp lý tương đối mở với các sản phẩm tài chính xanh tại Việt Nam và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động nguồn vốn xanh trong nước và quốc tế.
Hiện nay, quy mô tín dụng bền vững của Việt Nam chiếm 14,2% tổng dư nợ của nền kinh tế. Triển khai Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam, hiện có khoảng 70 tổ chức tín dụng xây dựng được sản phẩm tín dụng ngân hàng xanh; một số tổ chức tín dụng khác đã thiết lập các hỗ trợ, ưu đãi cho các khoản tín dụng xanh, xây dựng được sổ tay đánh giá rủi ro môi trường xã hội cho 10 ngành kinh tế. Nhiều ngân hàng thương mại đã tăng cường hợp tác, thu hút vốn ODA tài trợ cho các dự án xanh, sản phẩm xanh.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp Việt Nam đã bước đầu thu hút được nguồn vốn trái phiếu xanh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, quy mô trái phiếu xanh của chúng ta còn nhỏ, chỉ chiếm 2,2% tổng quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam (khoảng 3.200 tỷ đồng), tương đương Malaysia và thấp hơn 8 lần quy mô trái phiếu xanh của Singapore.
>>Làm sao để doanh nghiệp mặn mà với tín dụng xanh?
- Là điểm đến hấp dẫn của tín dụng xanh song quy mô nguồn vốn này của Việt Nam còn khá khiêm tốn. Việc hấp thụ và mở rộng cơ hội tiếp cận vốn xanh của chúng ta đang gặp những rào cản và vướng mắc, thưa ông?
Dư nợ tín dụng xanh dù đã tăng trưởng tích cực song quy mô còn khá nhỏ, tập trung vào một số ngân hàng thương mại lớn trong khi nhiều ngân hàng thương mại khác chưa có hướng dẫn, vận hành cơ chế tài chính xanh từ các tổ chức quốc tế. Trên thị trường chứng khoán, chỉ số bền vững (VNSI) có sự tham gia của 20 doanh nghiệp niêm yết bền vững hàng đầu Việt Nam nhưng rõ ràng số lượng này còn hạn chế và nhiều tiêu chí đưa ra đã lạc hậu. Việt Nam cũng đã tham gia sáng kiến thị trường chứng khoán bền vững (SSE) nhưng việc tuân thủ khung quản trị ESG chưa phổ biến.
Tương tự, Việt Nam là thị trường phát hành nợ xanh lớn thứ 2 trong ASEAN, song trái phiếu xanh chưa chưa đáp ứng yêu cầu ESG, chưa tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế về phát hành trái phiếu xanh nên tính thanh khoản còn thấp, chưa có kết nối cung cầu mạnh mẽ khiến người mua tiềm năng khó gặp người bán tiềm năng. Điều này dẫn đến lãng phí thời gian, mất chi phí giao dịch và các nguồn lực so với thị trường khác.
Ngoài ra, lộ trình phát triển thị trường các - bon, nơi trao đổi, giao dịch các kết quả từ việc giảm phát thải khí nhà kính đã được đề cập trong Luật Bảo vệ môi trường nhưng đang chờ hướng dẫn, hoàn thiện cơ sở pháp lý và thí điểm.
- Việt Nam đang ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế xanh, còn nhiều dư địa mở rộng nguồn vốn cho tài chính xanh. Để nắm bắt cơ hội này, ông đề xuất những giải pháp, cơ chế chính sách nào cần được thực hiện trong thời gian tới?
Chúng tôi kiến nghị Chính phủ làm rõ hơn những tiêu chí về tài chính xanh, tín dụng xanh, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh và biến đổi khí hậu để các chủ thể nhất quán áp dụng; đẩy nhanh hoàn thiện cơ chế động lực, chính sách, kể cả cơ chế thử nghiệm (Sandbox) cho các mô hình kinh doanh mới; thúc đẩy thị trường tài chính cân bằng và phát triển bền vững bởi hiện nay tài chính xanh tập trung chủ yếu khối ngân hàng, còn mảng trái phiếu xanh, cổ phiếu xanh chưa phát triển. Bên cạnh đó, tăng cường hợp tác quốc tế huy động nguồn lực tài chính cho kinh tế xanh từ các quỹ đầu tư, các thị trường tài chính quốc tế, nguồn vốn tài trợ song và đa phương, cả ưu đãi và thương mại.
Các doanh nghiệp niêm yết, công ty đại chúng chú trọng áp dụng các chuẩn mực quốc tế về kế toán, báo cáo tài chính, tích hợp các yếu tố ESG, tiêu chí xanh vào hoạt động kinh doanh nhằm nâng giá trị doanh nghiệp khi niêm yết, phát hành trái phiếu, trái phiếu xanh, trái phiếu bền vững, được tiếp cận các khoản vay ưu đãi, bảo lãnh tín dụng của các tổ chức quốc tế.
Về lâu dài, cần phát triển, hoàn thiện Sàn giao dịch tín chỉ carbon, các sản phẩm giao dịch (tín chỉ carbon bắt buộc/tự nguyện quốc tế, tín chỉ carbon nội địa tuân thủ các tiêu chuẩn của Việt Nam), thành viên thị trường và môi giới giao dịch, đối tượng giao dịch; phát triển hạ tầng công nghệ, dữ liệu, thị trường thứ cấp và kể cả phái sinh cho những sản phẩm xanh. Đồng thời, tăng cường truyền thông, phổ cập, hướng dẫn bằng nhiều hình thức khác nhau, góp phần nâng cao nhận thức và hành động.
- Trân trọng cảm ơn ông!
Có thể bạn quan tâm