Việt Nam cần hướng tới nền kinh tế phát triển từ nội lực
GDP 6 tháng đầu năm 2019 tăng 6,76%, mục tiêu tăng trưởng từ nay đến cuối năm 2019 từ 6,6%-6,9% là khả thi.
Nông nghiệp gặp khó
Thông tin từ Tổng cục Thống kê về tình hình kinh tế-xã hội 6 tháng năm 2019 cho thấy, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,39%, đóng góp 6% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,93%, đóng góp 51,8%; khu vực dịch vụ tăng 6,69%, đóng góp 42,2%. Thực tế, kinh tế - xã hội nước ta 6 tháng đầu năm 2019 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có xu hướng tăng trưởng chậm lại với các yếu tố rủi ro, thách thức gia tăng.
Có thể bạn quan tâm
Đáng chú ý, trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành nông nghiệp gặp khó khăn do dịch tả lợn châu Phi lây lan trên diện rộng nên chỉ tăng 1,3%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 3,07% của 6 tháng năm 2018, đóng góp 0,17 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 4,15% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,03 điểm phần trăm. Điểm sáng của khu vực này là ngành thủy sản tăng trưởng khá ở mức 6,45% do nhu cầu thị trường tiêu thụ tăng cao và là mức tăng trưởng cao nhất của 6 tháng đầu năm trong 9 năm trở lại đây, đóng góp 0,21 điểm phần trăm.
Về công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2019 duy trì tăng trưởng khá ở mức 9,13%, đóng góp 3,06 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định là điểm sáng đóng góp chính cho tăng trưởng kinh tế với mức tăng 11,18%, tuy thấp hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2018 nhưng cao hơn so với mức tăng 6 tháng đầu năm của các năm 2012-2017, đóng góp 2,38 điểm phần trăm. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 1,78%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm. Ngành xây dựng 6 tháng đầu năm 2019 duy trì mức tăng trưởng khá với tốc độ 7,85%, đóng góp 0,48 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế 6 tháng đầu năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 13,55% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,2%; khu vực dịch vụ chiếm 42,04%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,21% (cơ cấu tương ứng cùng kỳ năm 2018 là: 14,13%; 33,83%; 41,8%; 10,24%).
Đánh giá về triển vọng tăng trưởng từ nay đến cuối năm, ông Dương Mạnh Hùng, Vụ trưởng Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia cho biết, mục tiêu tăng trưởng đến cuối năm từ 6,6%-6,9% trong năm 2019 là khả thi. Sản xuất công nghiệp chế biến chế tạo tuy không tăng nhanh bằng năm 2018, nhưng vẫn duy trì mức khá cao.
Các doanh nghiệp khá lạc quan, vì theo số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, có 83,5% doanh nghiệp chế biến chế tạo đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý II khả quan hơn quý I và 88,6% tin là quý III hơn quý II. Các hoạt động dịch vụ thị trường sôi động, tiêu dùng tăng cao, trong khi chỉ số giá cả tiêu dùng CPI duy trì ổn định.
Những“điểm nhấn” cần quan tâm
Điểm cần lưu tâm là tiến độ giải ngân vốn đầu tư công còn thấp, các hiệp định thương mại sẽ có tác động nhiều chiều đến xuất nhập khẩu, trong khi đó cần tính đến việc suy giảm trong lĩnh vực nông nghiệp. Bên cạnh đó, theo dự báo, năm 2019 không còn những yếu tố tạo nên sự đột biến như năm 2018, trong khi bối cảnh quốc tế diễn biến khó lường khiến bức tranh tăng trưởng kinh tế năm nay khó đạt được kết quả cao đột biến như năm trước và đây cũng là những điểm cần lưu ý trong việc điều hành những tháng cuối năm.
Bên cạnh những mặt đạt được nhìn chung vẫn có nhiều điểm đáng phải quan tâm. Cụ thể, theo một số chuyên gia kinh tế, hiện vấn đề cải thiện môi trường kinh doanh có dấu hiệu chững lại, khu vực kinh tế tư nhân tiếp tục gặp nhiều khó khăn và rào cản trong phát triển. Bên cạnh đó, lạm phát và tỷ giá mặc dù nằm trong phạm vi điều chỉnh như dự kiến nhưng đã đương đầu nhiều sức ép. Ngoài ra, dư địa chính sách tiền tệ bị thu hẹp và đặc biệt là rủi ro tài khóa ngày càng gia tăng. Đó là những khó khăn lớn mà nền kinh tế đang phải đối mặt cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Một vấn đề khó khăn mà nền kinh tế chúng ta đang phải đối mặt và việc tìm giải pháp khắc phục không thể trong “một sớm một chiều” đó là việc kết quả tăng trưởng quá phụ thuộc vào các tập đoàn nước ngoài. Hội nhập đang tạo điều kiện để Việt Nam thu hút nguồn vốn FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Doanh nghiệp FDI cũng đánh giá tích cực về môi trường đầu tư ở Việt Nam và ồ ạt rót vốn.
Sự lớn mạnh của doanh nghiệp FDI thể hiện rõ qua kim ngạch xuất nhập khẩu. Năm 2018 là năm kinh tế Việt Nam tăng trưởng 7,08%, cao nhất trong vòng hơn một thập niên vừa qua. Động lực đóng góp chính vào tăng trưởng, về phía sản xuất là khu vực đầu tư nước ngoài với ngành công nghiệp chế biến chế tạo và tiêu dùng nội địa, thặng dư thương mại.
Tuy nhiên, với độ mở lớn cùng tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, kinh tế Việt Nam sẽ chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi các diễn biến kinh tế quốc tế. Trong khi đó, nhiều dự báo không mấy lạc quan về kinh tế thế giới với mức tăng trưởng chậm lại và tiềm ẩn yếu tố khó lường. Không chỉ là tác động từ kinh tế thế giới, việc tăng trưởng trong nước phụ thuộc vào khối FDI mà chủ yếu là các tập đoàn nước ngoài cũng là thách thức lớn cho tăng trưởng kinh tế năm 2019.
Và nói như chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành, thách thức lớn nhất mà chúng ta đang phải đối mặt là tốc độ tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào các tập đoàn đa quốc gia, nếu các tập đoàn này không phát triển hoặc gặp khó thì Việt Nam cũng bị ảnh hưởng.