Đề xuất xây dựng cửa khẩu thông minh tại ga đường sắt Đồng Đăng và Lào Cai
Doanh nghiệp kiến nghị xây dựng cửa khẩu thông minh tại ga đường sắt Đồng Đăng và ga Lào Cai rút ngắn thời gian thông quan, thúc đẩy logistics đường sắt Việt Nam - Trung Quốc.
Phát biểu khai mạc Hội nghị Hợp tác Logistics Đường sắt Việt Nam - Trung Quốc (Quảng Tây), ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu, Bộ Công Thương nhấn mạnh, sự kiện là dấu mốc quan trọng trong việc triển khai Bản ghi nhớ (MOU) về thúc đẩy khai thác tuyến vận tải container đường sắt quốc tế Việt Nam - Trung Quốc, được ký kết vào tháng 12 năm 2024 giữa Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương Việt Nam) và Sở Thương mại Quảng Tây (Trung Quốc).
Đây là kết quả của nỗ lực hợp tác bền chặt giữa hai bên, đồng thời thể hiện quyết tâm chung trong việc phát triển vận tải đường sắt xuyên biên giới, nhằm tối ưu hóa chuỗi cung ứng và thúc đẩy thương mại song phương.

Đối tác thương mại hàng đầu
Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu cho biết, trong những năm qua, hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc không ngừng phát triển mạnh mẽ.
Năm 2024, kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước đạt 205,2 tỷ USD, tăng 19,3% so với năm trước đó. Việt Nam đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong ASEAN từ năm 2016 và là đối tác thương mại lớn thứ 6 trên thế giới của Trung Quốc từ năm 2020.
“Đặc biệt, tỉnh Quảng Tây đóng vai trò quan trọng trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, năm 2024, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Quảng Tây và Việt Nam đạt 41,6 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2023”, ông Trần Thanh Hải nhấn mạnh.
Đồng thời khẳng định, Việt Nam đã duy trì vị thế là đối tác thương mại lớn nhất của Quảng Tây trong 26 năm liên tiếp. Kim ngạch xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu biên giới đất liền giữa Việt Nam và Quảng Tây chiếm trên 95% tổng kim ngạch trao đổi hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Cũng tại Hội nghị, ông Lý Kiến Lương, Phó Giám đốc Sở Thương mại Quảng Tây, Trung Quốc, khẳng định, năm 2024, Quảng Tây đã phát huy tối đa lợi thế về vị trí địa lý là kết nối đất liền và biển với các nước ASEAN, và mối quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại với Việt Nam đã đạt được những bước tiến mới.
Tổng kim ngạch thương mại song phương đạt 295,58 tỷ nhân dân tệ, tăng 16,4% so với cùng kỳ, vững vàng đứng thứ hai trên các tỉnh Trung Quốc trong việc hợp tác thương mại với Việt Nam, trong đó quy mô xuất khẩu đứng đầu.
Về cấu trúc thương mại, sản phẩm điện tử, nông sản và sản phẩm dệt may cũng như các mặt hàng khác đã trở thành mặt hàng chủ yếu trong hoạt động thương mại giữa hai bên. Trong đó, Quảng Tây xuất khẩu các sản phẩm sang Việt Nam như sản phẩm dệt may, máy móc công trình và sản phẩm năng lượng mặt trời lần lượt đạt 31,1 tỷ nhân dân tệ, 3,09 tỷ nhân dân tệ và 440 triệu nhân dân tệ. Việt Nam đã trở thành thị trường lớn nhất của Quảng Tây xuất khẩu kính quang điện và là thị trường lớn thứ hai của Quảng Tây xuất khẩu tấm pin năng lượng mặt trời.
Trong khi đó, các mặt hàng nông sản của Việt Nam như trái cây, cao su và dược liệu thuốc Đông y nhập mạnh từ VN vào thị trường Quảng Tây. Năm 2024, Quảng Tây nhập khẩu dược liệu thuốc Đông y từ Việt Nam đạt 227 triệu nhân dân tệ, chiếm 8% tổng kim ngạch nhập khẩu dược liệu của cả Trung Quốc. Tổng lượng xuất nhập khẩu hoa quả giữa Quảng Tây và Việt Nam đạt 1.257 tấn, tăng 38,1%; kim ngạch đạt 19,39 tỷ nhân dân tệ, tăng 11,1%, trong đó riêng nhập khẩu sầu riêng đạt 4,45 tỷ nhân dân tệ. Quảng Tây đã trở thành cửa ngõ và trung tâm trung chuyển quan trọng dành cho trái cây ASEAN vào Trung Quốc, đặc biệt cửa khẩu Hữu Nghị Quan là cửa khẩu nhập khẩu sầu riêng lớn nhất của Trung Quốc.
Năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa trung gian giữa Quảng Tây và Việt Nam đạt 149,97 tỷ nhân dân tệ, tăng 24,6% so với cùng kỳ năm trước. Việt Nam chiếm 57,7% thị phần quốc tế của Quảng Tây trong lĩnh vực này, Quảng Tây và Việt Nam hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn trong chuỗi công nghiệp quốc tế.
Cơ hội thúc đẩy logistics đường sắt
Trao đổi về hệ thống logistics đường sắt, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu Trần Thanh Hải cho biết, với ưu điểm về tính ổn định, chi phí hợp lý và khả năng vận chuyển khối lượng hàng hóa lớn, đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong việc kết nối các trung tâm sản xuất và tiêu thụ của hai nước.

Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực đầu tư, nâng cấp hạ tầng đường sắt, thúc đẩy kết nối đường sắt liên vận quốc tế để góp phần nâng cao năng lực logistics, hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Tuy nhiên, vẫn còn những vướng mắc trong kết nối hạ tầng, thủ tục xuất nhập khẩu và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp logistics Việt Nam - Quảng Tây (Trung Quốc). Ông Trần Thanh Hải nhận định, cần các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác tuyến vận tải container đường sắt quốc tế Việt Nam - Quảng Tây.
Theo Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, tuyến vận tải container đường sắt quốc tế Việt Nam - Quảng Tây là cơ hội để các doanh nghiệp hai nước thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của logistics đường sắt giữa Việt Nam và Trung Quốc nói chung, giữa Việt Nam và Quảng Tây nói riêng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, mở ra những cơ hội hợp tác mới và bền vững.
Đồng quan điểm, ông Lý Kiến Lương cũng cho rằng: "Tuyến container đường sắt Trung - Việt là một tuyến đường logisitcs kết nối Trung Quốc và Việt Nam quan trọng, đang phát huy vai trò ngày càng quan trọng trong việc xúc tiến hợp tác kinh tế thương mại giữa hai bên, vận tải hàng hóa bằng tuyến container đã trở thành một động lực quan trọng trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng mậu dịch giữa Quảng Tây (Trung Quốc) và Việt Nam”.
Đồng thời cho biết năm 2024, các chuyến tàu Trung-Việt khởi hành từ Quảng Tây đã vận chuyển 19.700 TEU hàng hóa, tăng gần 12 lần so với cùng kỳ năm trước.
Chủng loại hàng hóa vận chuyển mở rộng lên 687 loại xuất khẩu và 264 loại nhập khẩu, bao gồm sản phẩm điện tử, thiết bị máy móc, hàng tiêu dùng và nông sản đặc sắc, kết nối 25 tỉnh của Trung Quốc với các nước ASEAN như Việt Nam, Lào, Thái Lan...
Trong tháng 1 đến tháng 2 năm 2025, số chuyến tàu đạt 145 chuyến, tăng 272%; vận chuyển 5.118 TEU, tăng 753%, tiếp tục duy trì xu thế tăng trưởng mạnh mẽ. Vì hai bên Trung Việt đã áp dụng hàng loạt biện pháp tạo thuận lợi thương mại, ví dụ như Phía Trung triển khai mô hình “đường sắt thông quan nhanh” và Việt Nam mở dịch vụ vận tải liên vận quốc tế tại ga Kép và ga Cao Xá, nên hiện đã thực hiện các chuyến tàu Trung-Việt kết nối liền mạch với chuyến tàu Trung-Âu, đồng thời hàng hóa có thể xuất phát, đến nơi và hoàn tất thủ tục hải quan trong cùng một ngày. Các dịch vụ như thông quan vô giấy hóa và vận tải liên tuyến cũng góp phần tăng hiệu suất vận tải đường sắt đáng kể. Hiện nay, tuyến đường sắt Trung-Việt đã hoạt động thường xuyên theo mô hình “chuyến tàu hàng ngày”. Thời gian vận chuyển từ ga Nam Ninh Nam (Trung Quốc) đến ga Yên Viên (Việt Nam) nhanh nhất chỉ mất 14 giờ, rút ngắn hơn 80% thời gian so với vận tải biển truyền thống, có thể đáp ứng nhu cầu về thời gian của chuỗi cung ứng quốc tế, hiện thực mô hình “khởi hành vào buổi tối, đến nơi vào sáng hôm sau, hàng hóa lưu thông khắp thế giới”.
Nhằm nâng cao trình độ Tuyến vận tải container đường sắt liên vận quốc tế Việt – Trung, ông Lý Kiến Lương kiến nghị, một là, hợp tác tăng cường xây dựng cơ sở hạ tậng của tuyến đường sắt. Tiếp tục tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng đường sắt, đẩy nhanh xúc tiến mở rộng và nâng cấp các tuyến đường sắt, nâng cao năng lực vận chuyển của tuyến đường sắt. Tăng cường xây dựng thiết bị đồng bộ cho các khu logistics, ga đường sắt, nâng cao năng lực thông quan và chất lượng dịch vụ, đảm bảo hàng hóa có thể thông quan nhanh chóng và suôn sẻ. Hoàn thiện bố trí mạng lưới đường sắt, cung cấp nền tảng hạ tầng vững chắc hơn cho việc vận hành các chuyến tàu.
Hai là, không ngường nâng cao trình độ tiện lợi hóa thông quan. Tiếp tục ưu hóa quy trình thông quan, đơn giản hóa thủ tục và nâng cao hiệu quả thông quan. Tăng cường chia sẻ thông tin và phối hợp giám sát giữa các cơ quan hữu quan như hải quan v.v... thúc đẩy xây dựng cửa khẩu thông minh, kết nối " hệ thống một cửa " và kiểm nghiệm kiểm dịch trước, thực hiện khai báo một lần, kiểm soát một lần và một lần được thả. Tăng cường hướng dẫn chính sách và đào tạo cho các doanh nghiệp logistics, giúp họ hiểu rõ và áp dụng hiệu quả chính sách thông quan, giảm giá thành thông quan.
Ba là, ưu hóa công năng phục vụ của chuyến tàu. Các đơn vị đường sắt của hai bên cần ưu hóa việc điều độ chuyến tàu, xác định rõ lịch trình khai thác, nhằm cung cấp dịch vụ logistics mà có thể đạt được mong muốn cho các doanh nghiệp chuỗi cung ứng quốc tế. Khuyến khích các doanh nghiệp vận hành tuyến tàu không ngừng mở rộng lĩnh vực dịch vụ, phát triển kinh doanh đa dạng, mở rộng sang các lĩnh vực như kho bãi, phân phối và tài chính chuỗi cung ứng, để cung cấp giải pháp logistics toàn diện cho khách hàng.
Bốn là, thực chất xúc tiến việc chia sẻ thông tin logistics. Việc xây dựng một nền tảng về thông tin logistics kết nối giữa Trung Quốc và Việt Nam, thực hiện chia sẻ thông tin có liên quan như tuyến đường sắt, hải quan, khu công nghiệp và doanh nghiệp của cả hai bên Trung - Việt. Thông qua giải pháp thông tin hóa nắm chắc ngay những thông tin như trạng thái vận tải hàng hóa, tình hình kho bãi... nhằm nâng cao tính minh bạch và tính khả thi trong hoạt động logistics. Áp dụng công nghệ kỹ thuật như trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn để ưu hóa phân bổ tài nguyên logistics và nâng cao hiệu quả vận hành.
Năm là, tiếp tục xúc tiến ngành nghề hiệp đồng phát triển. Lấy Tuyến vận tải container đường sắt liên vận quốc tế Việt - Trung làm khâu quan trọng, tăng cường hai bên hợp tác và hiệp đồng phát triển trên lĩnh vực ngành nghề. Căn cứ ưu thế ngành nghề và nhu cầu logisitic của hai bên, hướng dẫn doanh nghiệp bố cục khu công nghiệp tại địa điểm dọc tuyến đường sắt, triển khai kết nối và hợp tác dự án ngành nghề .
Cùng nhận định vận tải đường sắt giữa Việt Nam và Quảng Tây, Trung Quốc còn nhiều hạn chế, cụ thể về hạ tầng và năng lực thông quan, ông Nguyễn Xuân Hùng, Phó Tổng GĐ Công ty CP Vận tải và Thương mại Đường sắt (Ratraco) kiến nghị, tỉnh Quảng Tây tiếp tục hỗ trợ cho các đoàn tàu từ Nam Ninh đến Yên Viên. Nghiên cứu thêm các tuyến mới từ Nam Ninh Quảng Tây – Kép (Bắc Giang).
Đồng thời, nghiên cứu triển khai xây dựng cửa khẩu thông minh tại ga đường sắt Đồng Đăng (Lặng Sơn) kết nối với Ga Bằng Tường (Quảng Tây, Trung Quốc) và ga Lào Cai (tỉnh Lào Cai) kết nối với ga Hà Khẩu, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), nhằm rút ngắn thời gian thông quan. Trong đó, triển khai Trung tâm kiểm dịch thực vật tại ga Bằng Tường , Nam Ninh. Sử dụng chung kết quả kiểm nghiệm, kiểm dịch hàng Việt Nam sang Quảng Tây.
“Chúng tôi cũng mong muốn được chấp thuận cho các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam được xuất khẩu sang Trung Quốc bằng đường sắt, ngoài mặt hàng nông sản trái cây như hiện nay”, ông Hùng kiến nghị.