Quản lý nguồn nước trong sản xuất công nghiệp được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong xu hướng chuyển đổi xanh tất yếu tại các khu công nghiệp tại Việt Nam.
Theo ông Hồ Kiên Trung, Phó Cục trưởng Cục Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, năm 2025 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong hành trình phát triển của Việt Nam, khi đất nước tiếp tục tiến bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với mục tiêu phát triển bền vững. Song song với những thành tựu kinh tế đáng ghi nhận, Việt Nam đang đối mặt với không ít thách thức về môi trường – trong đó, xử lý nước thải công nghiệp một cách hiệu quả, an toàn và bền vững là một trong những yếu tố quan trọng, cần đặc biệt quan tâm.
Phát biểu tại Diễn đàn “Quản lý nguồn nước trong sản xuất công nghiệp Việt Nam 2025”, do Cục Môi trường - Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp cùng Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức - sự kiện nhằm hưởng ứng Ngày Môi trường Thế giới 5/6 và Tháng hành động vì môi trường Việt Nam, ông Trung cho biết, những năm gần đây, Việt Nam đã và đang chuyển mình mạnh mẽ trong công cuộc bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong lĩnh vực xử lý nước thải công nghiệp, từ việc hoàn thiện hành lang pháp lý đến đầu tư vào công nghệ hiện đại và nâng cao nhận thức xã hội, chúng ta đang chứng kiến một sự chuyển đổi sâu sắc, quyết liệt và đầy chủ động.
Ý thức và trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp về bảo vệ môi trường không còn dừng ở sự đối phó mang tính hình thức, mà đã chuyển hóa thành hành động thực chất và bền vững.
"Ngày càng nhiều doanh nghiệp lựa chọn con đường phát triển xanh – mạnh dạn đầu tư vào các giải pháp xử lý nước thải tiên tiến, tiệm cận với công nghệ của những quốc gia phát triển hàng đầu. Tỷ lệ khu công nghiệp xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt chuẩn môi trường không ngừng tăng lên, thể hiện rõ nét sự thay đổi về chất trong cách tiếp cận và hành động", ông Trung cho biết.
Không dừng lại ở đó, việc triển khai hiệu quả hệ thống quan trắc nước thải tự động, liên tục, kết nối trực tiếp với cơ quan quản lý đã tạo ra một bước tiến đột phá trong công tác giám sát, kiểm soát môi trường, minh bạch hóa dữ liệu và thúc đẩy sự tuân thủ của doanh nghiệp.
"Những thay đổi tích cực này không chỉ góp phần giảm thiểu tối đa các sự cố môi trường mà còn đặt nền móng vững chắc cho một môi trường đầu tư kinh doanh hiện đại, bền vững và thân thiện với môi trường", theo lãnh đạo Cục Môi trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng cần thẳng thắn đối diện với những tồn tại và thách thức chưa thể bỏ qua – những “nút thắt” đòi hỏi sự quyết tâm, sáng tạo và hành động mạnh mẽ hơn nữa từ toàn hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội. Ông Trung chỉ ra 5 nút thắt lớn:
Thứ nhất, tỷ lệ nước thải công nghiệp được xử lý còn chưa đồng đều và toàn diện. Dù đã có những bước tiến rõ rệt, nhưng thực tế cho thấy vẫn còn tỷ lệ nhất định nước thải công nghiệp chưa được xử lý hoặc xử lý chưa đạt quy chuẩn trước khi thải ra môi trường.
Theo Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cả nước hiện có 94,1% khu công nghiệp đang hoạt động đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn. Tuy nhiên, ở cụm công nghiệp, con số này mới chỉ dừng lại ở mức 31,5%, một tỷ lệ còn khiêm tốn và cho thấy cần nỗ lực rất lớn phía trước.
Thứ hai, công nghệ xử lý nước thải còn chưa đồng bộ, chi phí đầu tư và vận hành vẫn là rào cản lớn. Việc lựa chọn công nghệ phù hợp với từng ngành nghề, quy mô sản xuất và năng lực tài chính vẫn là một bài toán chưa có lời giải tối ưu, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khiến chi phí đầu tư ban đầu và chi phí vận hành hệ thống xử lý nước thải trở thành gánh nặng, làm chậm lại quá trình chuyển đổi xanh.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn đang là điểm nghẽn. Chúng ta đang thiếu hụt đội ngũ chuyên gia, kỹ sư và kỹ thuật viên được đào tạo bài bản, có năng lực vận hành và bảo trì các hệ thống xử lý nước thải hiện đại. Đây là một thách thức cốt lõi, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả vận hành và khả năng duy trì bền vững các công trình xử lý nước thải.
Thứ tư, công tác giám sát và thực thi pháp luật vẫn còn những bất cập. Công tác quản lý, giám sát hoạt động xử lý nước thải công nghiệp chưa được triển khai đồng bộ, thường xuyên và liên tục. Việc thiếu dữ liệu, công cụ giám sát hiệu quả khiến một số hành vi vi phạm pháp luật về môi trường chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.
Thứ năm, tiềm năng kinh tế tuần hoàn từ nước thải chưa được khai thác đúng mức. Việc tái sử dụng nước thải sau xử lý, thu hồi tài nguyên và năng lượng từ nước thải vẫn chưa được quan tâm đúng mức, bỏ lỡ cơ hội chuyển đổi từ chi phí thành giá trị – từ rác thải thành tài nguyên.
Theo đó, ông Trung cho rằng trong bối cảnh Việt Nam đang hướng đến mục tiêu tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn, mỗi doanh nghiệp, mỗi địa phương phải chủ động và tiên phong trong việc đầu tư công nghệ, hoàn thiện quy trình và chung tay kiến tạo một hệ sinh thái sản xuất xanh – sạch – hiệu quả. Cộng đồng doanh nghiệp cũng phải có các giải pháp và các hoạt động đầu tư để cùng với các nhà quản lý, tạo bước chuyển mình mạnh mẽ trong công tác xử lý nước thải công nghiệp, đồng bộ từ về nhận thức, chính sách lẫn hành động cụ thể.
Là quốc gia nổi tiếng thế giới về năng lực quản lý tài nguyên nước, ông Daniël Stork, Tổng Lãnh sự Vương quốc Hà Lan tại TP Hồ Chí Minh nhận định, tại Việt Nam tình trạng thiếu nước sạch đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết do sự phát triển kinh tế nhanh chóng, gia tăng dân số và đô thị hóa. Do đó, quản lý nước hiệu quả, cùng với việc xử lý và tái sử dụng nước thải, là điều cần thiết và là ưu tiên chính đáng của Chính phủ Việt Nam. Quá trình chuyển đổi sang phát triển bền vững đòi hỏi sử dụng nước thông minh, quản lý tích hợp và quản trị có trách nhiệm.
Chia sẻ kinh nghiệm từ Hà Lan, có đặc điểm địa lý rất giống Việt Nam, cũng đã phải đối mặt với những thách thức tương tự liên quan đến khan hiếm nước trong nhiều thế kỷ, chẳng hạn như việc sử dụng nước quá mức cho nông nghiệp hay vấn đề xâm nhập mặn, ông Daniël Stork cho biết quốc gia đã tìm ra giải pháp bằng cách hợp tác với những người bị ảnh hưởng và thu hút cộng đồng tham gia vào công tác quản lý nước tập thể để cùng nhau giải quyết vấn đề. "Và chúng tôi vẫn đang tiếp tục phát triển những giải pháp này mỗi ngày. Đây là cách tiếp cận được gọi là “Kim cương Hà Lan” (Dutch Diamond), có bốn góc: khu vực tư nhân, viện nghiên cứu, xã hội và khu vực công. Trong đó, khu vực công đóng vai trò then chốt bằng cách tạo ra các luật và chính sách rõ ràng, đưa ra các ưu đãi phù hợp và đảm bảo thực thi hiệu quả", ông Daniël Stork nói.
Ông cũng cho biết thông qua hoạt động hợp tác hỗ trợ Việt Nam thời gian qua cũng như dựa trên phản hồi từ cộng đồng doanh nghiệp Hà Lan tại Việt Nam và các đối tác kinh doanh Việt Nam của họ, và nhìn vào lịch sử các hoạt động và dự án trong khuôn khổ hợp tác phát triển Hà Lan – Việt Nam, có thể thấy rằng khung pháp lý vẫn là một rào cản đối với sự phát triển của ngành nước tại Việt Nam. “Chúng tôi nhận thấy có những nhu cầu thực sự đối với ngành quản lý nước và chất thải, sự tham gia tích cực từ khu vực tư nhân, và sự sẵn có của công nghệ tại Việt Nam; trở ngại chính vẫn là một khung pháp lý rõ ràng và hiệu quả, cũng như một khoảng cách đáng kể giữa chính sách và thực tiễn liên quan đến xử lý và tái sử dụng nước thải”, Tổng Lãnh sự Vương quốc Hà Lan tại TP HCM nhấn mạnh.
Theo Tổng Lãnh sự Vương quốc Hà Lan tại TP HCM, Chính phủ Việt Nam, đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Môi trường, đã có những nỗ lực rất lớn về những thay đổi chính sách kịp thời, đặc biệt là Nghị định 05/2025/NĐ-CP và Thông tư 07/2025/TT-BTNMT hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường, những văn bản được giới thiệu và thảo luận trong diễn đàn hôm nay. Vai trò lãnh đạo này từ chính phủ là cần thiết trong việc tạo điều kiện cho quản trị nước bền vững. Đồng thời, ông kỳ vọng những hoạt động thực tế từ các doanh nghiệp của Hà Lan, Haskoning và Heineken, cùng với các nhà cung cấp công nghệ như NXFiltration và CA Water…, là những ví dụ thực tế về cách chuyên môn của Hà Lan có thể bổ sung cho tham vọng của Việt Nam trong quản lý nguồn nước sản xuất công nghiệp, hướng tới một tương lai nơi nước sạch và nước đã qua xử lý không còn là thách thức.
Cũng trong khuôn khổ hoạt động của“Diễn đàn Quản lý nguồn nước trong sản xuất công nghiệp Việt Nam 2025”, hơn 70 đại biểu đã có tham quan quy trình quản lý nguồn nước và xử lý nước thải theo hướng kinh tế tuần hoàn tại nhà máy Heineken Việt Nam. Đại diện Heineken, bà Phạm Thị Trúc Thanh- Giám đốc Phát triển Bền vững Công ty TNHH Nhà máy Bia Heineken Việt Nam, cho biết nước là tài nguyên quý giá, đối với công ty sản xuất đồ uống thì nước là vấn đề sống còn. Trong chiến lược của Heineken, phát triển bền vững là “viên kim cương” đặt ngang hàng với lợi nhuận, doanh thu. Theo đó, bảo tồn tài nguyên nước luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu dưới trụ cột môi trường. Qua đó, doanh nghiệp mang đến những đóng góp thiết thực cho tự nhiên và điều kiện sản xuất, đồng thời hỗ trợ chất lượng sống và sinh kế của người dân tại các địa phương.
Theo bà Thanh, Heineken Việt Nam có 5 nhà máy trải rộng khắp Việt Nam, nhà máy ở TP HCM có mặt đầu tiên, nhà máy Vũng Tàu lớn nhất Đông Nam Á, năm 2024 tại ra 172 nghìn việc làm, đóng góp 0,5% GDP của Việt Nam. Bà Thanh cho biết xuyên suốt hoạt động, doanh nghiệp chú trọng 3 trụ cột để phát triển bền vững và toàn bộ lãnh đạo cấp cao đều có mặt tham gia để thúc đẩy, bao gồm: Hướng tới tác động môi trường bằng 0 - cụ thể đạt phát thải ròng bằng “0”, tối đa hóa kinh tế tuần hoàn Bảo tồn nguồn nước và thiên nhiên; Hướng tới một thế giới hòa nhập, công bằng bình đẳng đa dạng và hòa nhập, công bằng và an toàn, hỗ trợ cộng đồng; Hướng đến văn hóa uống có trách nhiệm với không cồn và độ cồn thấp uống an toàn, uống chừng mực.
Đối với chiến lược quản lý nguồn nước toàn diện, bà Thanh chia sẻ, doanh nghiệp đặt bảo tồn lưu vực sông tại địa phương làm trọng tâm; trong đó chuỗi cung ứng không ngừng cải thiện chất lượng và hiệu suất sử dụng nước; Sản xuất với tham vọng 2030 với hiệu suất sử dụng nước trong sản xuất đạt 2.6 hl/hl ở khu vực khan hiếm nước và 2.9 hl/hl trên toàn cầu. Đến nay nhà máy Vũng Tàu đã cắt giảm tới 50% công suất sử dụng nước, theo lãnh đạo Heineken Việt Nam. Hoàn thiện chiến lược, bà Thanh cho hay, đối với cộng đồng và thiên nhiên, doanh nghiệp đặt tham vọng 2030 100% dù hoàn nước tại khu vực khan hiếm nước.
Thực tế, doanh nghiệp đang triển khai chương trình hợp tác cùng WWF-Việt Nam và các đối tác nhằm bảo tồn nguồn nước tại ba lưu vực sông Hồng, sông Tiền và sông Đồng Nai, kéo dài từ 2022 đến năm 2025. Với tổng vốn đầu tư 30 tỷ đồng từ Heineken Việt Nam, chương trình hướng đến mục tiêu bảo tồn 3 tỷ lít nước mỗi năm thông qua các hoạt động tư vấn thiết kế chiến lược quản lý hệ thống thủy văn, trồng và chăm sóc rừng tràm, cây bản địa, nuôi dưỡng và khoanh nuôi xúc tiến tái sinh rừng tự nhiên, cải thiện chất lượng nguồn nước, tổ chức tập huấn và truyền thông cho người dân địa phương. Qua đó hỗ trợ được hàng triệu người dân địa phương.
“Chúng ta không thể đi một mình mà phải hợp tác công - tư, với sự chung tay và đi cùng nhau để có thể thực hiện bảo tồn nguồn tài nguyên nước, phát triển bền vững”, bà Thanh khẳng định.