Ngành lâm nghiệp cần chuyển mạnh sang phương thức quản trị hiện đại dựa trên dữ liệu và chuyển đổi số, cơ sở dữ liệu ngành phải được cập nhật để trở thành dữ liệu “sống”.
Năm 2025, lâm nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ cột trong nền kinh tế khi giá trị sản xuất tăng 5,6 - 5,8%, kim ngạch xuất khẩu đạt 18 - 18,5 tỷ USD.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị nhấn mạnh, những kết quả này cho thấy lâm nghiệp không phải là ngành tăng trưởng thấp hay chỉ “giữ nhịp”, mà đang sở hữu dư địa lớn để bứt lên nếu thay đổi cách quản trị và tổ chức thực hiện. Mục tiêu tăng trưởng cao không đồng nghĩa với mở rộng bằng mọi giá, mà là nâng hiệu quả, chất lượng và giá trị gia tăng của rừng, từ quản lý, bảo vệ đến khai thác, chế biến và dịch vụ hệ sinh thái.
Theo báo cáo từ Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho thấy, giá trị xuất khẩu lâm sản tiếp tục là điểm sáng của ngành Lâm nghiệp trong năm 2025 nhờ vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng trong bối cảnh các thị trường lớn siết chặt yêu cầu về truy xuất nguồn gốc và gia tăng rào cản thương mại.
Giá trị xuất khẩu lâm sản ước khoảng 18,3 - 18,5 tỷ USD, tăng khoảng 6,6% so với năm 2024. Đáng chú ý, xuất siêu lâm sản ước đạt 14,87 tỷ USD, tăng 2,4% so với năm 2024, chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng xuất siêu ngành nông nghiệp năm 2025 có thể đạt 21 tỷ USD.
Bên cạnh đó, các chỉ tiêu chủ yếu năm 2025 của ngành Lâm nghiệp đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc duy trì ổn định ở mức 42,03%, bảo đảm mục tiêu chiến lược quốc gia. Tốc độ tăng giá trị sản xuất lâm nghiệp ước đạt 5,6–5,8%, tương đương 103% kế hoạch, tiếp tục nằm trong nhóm ngành có mức tăng trưởng cao trong lĩnh vực nông nghiệp.
Diện tích rừng được cấp chứng chỉ rừng đạt gần 120.000 ha (đạt 122% kế hoạch năm 2025), nâng tổng số diện tích rừng có chỉ rừng của cả nước ước đạt 730.000 ha (đạt 146% mục tiêu đến hết năm 2025 là 500.000 ha rừng được cấp chứng chỉ QLRBV). Từ rừng trồng tập trung cũng đã cung cấp khoảng 24,6 triệu m3 gỗ nguyên liệu cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và xuất khẩu.
Tổng nguồn thu từ các loại dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) đến ngày 19/12/2025 là 3.936,55 tỷ đồng. Ứớc thực hiện năm 2025 đạt khoảng 3.940 tỷ đồng, đạt 119% kế hoạch. Đáng chú ý, thu từ việc chuyển nhượng bổ sung 1 triệu tấn CO2 còn dư thuộc vùng Bắc Trung Bộ giai đoạn 2018 - 2019 theo quy định tại Nghị định số 107/2022/NĐ-CP là 5 triệu USD tương đương với 131,07 tỷ đồng.
Tuy nhiên, báo cáo của Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cũng chỉ ra một số hạn chế như tình trạng vi phạm các quy định về bảo vệ và phát triển rừng vẫn diễn ra phức tạp, việc chặt phá, khai thác rừng trái phép, cháy rừng, xâm lấn rừng, chống người thi hành công vụ còn xảy ra. Đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị cho công tác quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng và đầu tư cơ sở hạ tầng lâm nghiệp còn hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Công tác trồng rừng phòng hộ gặp nhiều khó khăn do quỹ đất trồng rừng manh mún, phân bố ở những nơi xa xôi, đòi hỏi chi phí cao. Trồng phân tán đạt khoảng 108 triệu cây (đạt 90% kế hoạch).
Từ thực tiễn, ông Nguyễn Vũ Linh, Giám đốc Vườn quốc gia Bạch Mã, cho rằng ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số đã chứng minh hiệu quả trong quản lý, bảo vệ rừng, đặc biệt với hệ thống camera giám sát và cảm biến phát hiện xâm nhập. Tuy nhiên, cơ chế đầu tư và định mức tài chính chưa theo kịp yêu cầu, khiến nhiều công cụ quản trị hiện đại chưa được triển khai rộng rãi.
Bổ sung thêm, ông Phạm Văn Điển, Hiệu trưởng Trường Đại học Lâm nghiệp, nhấn mạnh tăng trưởng lâm nghiệp không thể dựa vào mở rộng diện tích mà phải dựa vào chất lượng rừng, tiêu chuẩn quản lý và nhân lực. Doanh thu từ khoa học - tư vấn - chuyển giao của nhà trường năm 2025 đạt hơn 100 tỷ đồng, chiếm khoảng 20% tổng doanh thu, cho thấy khoa học và đào tạo hoàn toàn có thể trở thành một phần của chuỗi giá trị tăng trưởng.
Bước sang năm 2026, ngành Lâm nghiệp đặt mục tiêu duy trì tỷ lệ che phủ rừng khoảng 42%, tốc độ tăng giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt 5–5,5%, giá trị xuất khẩu lâm sản đạt khoảng 18,5 tỷ USD, cùng nhiều chỉ tiêu cụ thể về trồng rừng, khai thác gỗ rừng trồng và thu dịch vụ môi trường rừng.
Để thực hiện các mục tiêu này, toàn ngành sẽ tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp trọng tâm: hoàn thiện thể chế, chính sách và pháp luật về lâm nghiệp; tổ chức thực hiện hiệu quả các chiến lược, quy hoạch, chương trình, đề án của ngành; tăng cường bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng, nhất là tại các khu vực trọng điểm; đẩy mạnh ứng dụng khoa học – công nghệ, chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo trong quản lý tài nguyên rừng.
Bên cạnh đó, ngành tiếp tục phát triển rừng bền vững, nâng cao chất lượng giống cây trồng lâm nghiệp, thúc đẩy trồng rừng gỗ lớn, phát triển dịch vụ môi trường rừng và thị trường các-bon rừng. Chủ động hợp tác quốc tế nhằm vận động, thu hút nguồn vốn ODA và FDI thông qua các chương trình, dự án quốc tế; duy trì đà tăng trưởng của công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản, tăng cường xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu “Gỗ Việt Nam”.
Thứ trưởng Nguyễn Quốc Trị khẳng định, lâm nghiệp phải góp phần trực tiếp vào mục tiêu tăng trưởng chung của đất nước, trong đó có mục tiêu tăng trưởng hai con số.
Thứ trưởng nhấn mạnh yêu cầu việc quản lý và sử dụng tài nguyên rừng trong giai đoạn tới phải bảo đảm kịp thời, hiệu quả và bền vững, gắn chặt giữa bảo vệ, bảo tồn với phát triển kinh tế rừng. Cùng với đó, hệ thống thể chế, chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật cần tiếp tục được hoàn thiện đồng bộ, phù hợp với mô hình chính quyền địa phương hai cấp và thực tiễn triển khai tại cơ sở.
Trước những sức ép ngày càng lớn từ cạnh tranh và rào cản thương mại, ngành lâm nghiệp phải chủ động đa dạng hóa thị trường, mặt hàng và chuỗi giá trị, giảm phụ thuộc vào một thị trường đơn lẻ. Thứ trưởng cũng yêu cầu chuyển mạnh sang phương thức quản trị hiện đại dựa trên dữ liệu và chuyển đổi số, trong đó cơ sở dữ liệu ngành lâm nghiệp phải được lan tỏa, sử dụng thành thạo và thường xuyên cập nhật để trở thành dữ liệu “sống” phục vụ chỉ đạo, điều hành.
Đồng thời, việc tăng cường phối hợp liên ngành và nâng cao năng lực đội ngũ được xác định là điều kiện then chốt để các mục tiêu của ngành được triển khai thống nhất, hiệu quả từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm lâm nghiệp phát triển bền vững mà không đánh đổi tài nguyên rừng và đa dạng sinh học.