Trước áp lực từ thuế quan, căng thẳng địa chính trị, biến động thị trường truyền thống…, ngành gỗ xuất khẩu Việt Nam buộc phải tìm ra hướng đi mới.
Ngoài tìm cách thích ứng với thuế quan mới của Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ Việt Nam cũng cần đa dạng hóa thị trường nhằm giảm bớt rủi ro thuế quan, căng thẳng địa chính trị.
Đầu năm nay, Công ty Cổ phần gỗ MDF VRG Quảng Trị - đơn vị sản xuất gỗ công nghiệp xuất khẩu có tiếng tại Miền Trung, đã ký hợp đồng xuất khẩu 16.000 m3 gỗ cho một đối tác ở Trung Đông. Tuy nhiên, đơn hàng này gặp trục trặc do xung đột quân sự giữa Iran và Israel.
Trường hợp của Công ty Cổ phần gỗ MDF VRG Quảng Trị là một trong những khó khăn điển hình đối với ngành gỗ xuất khẩu của Việt Nam trước những tác động từ căng thẳng địa chính trị, đặc biệt là phân khúc gỗ MDF vốn coi thị trường Tây Á là trọng điểm.
Ngoài ra, áp lực cạnh tranh cũng là một khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ. Tại khu vực Đông Nam Á, nguồn cung gỗ MDF cho thị trường quốc tế ngày càng nhiều, xuất hiện thêm các đối thủ mạnh như Indonesia, Malaysia,… Trong khi đó, thị trường tiêu thụ không còn mạnh mẽ như trước do khủng hoảng kinh tế, suy thoái bất động sản dẫn đến giảm nhu cầu xây dựng.
Nhìn toàn cảnh, nhà máy MDF mọc lên như nấm. Vào năm 1970, trên thế giới chỉ có 3 nhà máy sản xuất ván MDF ở Hoa Kỳ với công suất cao nhất 133.000 m3/năm. Đến năm 2001 đã có hàng nghìn nhà máy MDF trên toàn thế giới với sản lượng MDF đạt 29,056 triệu m3/năm.
Đến năm 2023, tổng sản lượng MDF trên toàn thế giới đạt 115,5 triệu m3/năm, trong đó Trung Quốc là quốc gia sản xuất ván MDF lớn nhất thế giới, chiếm hơn 60% tổng sản lượng toàn cầu. Các quốc gia sản xuất ván MDF hàng đầu khác bao gồm Hoa Kỳ, Đức, Brazil, Ấn Độ. Tốc độ tăng trưởng kép trung bình hàng năm (CAGR) dự kiến sẽ đạt 3,81% từ năm 2024 đến năm 2029. Thực tế này gây ra tình trạng cạnh tranh gay gắt để giữ thị phần.
Đối với ngành gỗ nói chung, trước đây xuất khẩu sang thị trường Mỹ có loại gỗ được hưởng thuế 0%, có loại chịu thuế chỉ 2%. Nhưng hiện nay mức thuế đó đã tăng lên 20%. Ông Trần Quốc Mạnh - Phó Chủ tịch Hiệp hội xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam cho biết, đây là khó khăn chưa từng có, chắc chắn mục tiêu xuất khẩu của ngành gỗ Việt Nam trong năm nay sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều.
Theo ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương), mức thuế đối ứng 20% với hàng hóa Việt Nam không chỉ tạo áp lực về chi phí, mà còn đòi hỏi doanh nghiệp phải nhanh chóng thích ứng với các tiêu chuẩn ngày càng khắt khe, đồng thời chủ động tìm kiếm các kênh tiếp cận thị trường hiệu quả và chính danh hơn.
Trong bối cảnh Mỹ áp thuế quan 20%, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gỗ Việt Nam đã phải tính đến việc giảm giá bán. Tuy nhiên, biên lợi nhuận ngành gỗ Việt Nam chỉ dưới 10%, nên việc chia sẻ lợi nhuận với đối tác nhập khẩu sẽ gặp nhiều khó khăn.
Mặc dù vậy, Mỹ vẫn là thị trường nhập khẩu gỗ lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới 56% tổng kim ngạch, đạt 5,41 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm nay, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Do đó, việc tìm cách thích ứng với thuế quan mới để duy trì xuất khẩu gỗ sang Mỹ là vô cùng cần thiết.
Nhiều chuyên gia cho rằng, để duy trì được xuất khẩu gỗ sang Mỹ, các doanh nghiệp cần tăng cường nội lực, đặc biệt tăng tỷ lệ nội địa hóa, đầu tư vào các khâu có giá trị gia tăng cao nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Bên cạnh đó, sản xuất gỗ tại Việt Nam, sau đó hoàn thiện, đóng gói tại Mỹ cũng là một phương án khả thi.
Ngoài ra, việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu gỗ cũng là vấn đề cấp bách, nhưng điều này cũng không dễ dàng do tiêu chuẩn của các thị trường, như EU, Trung Đông… ngày càng khắt khe hơn. Trong đó, gỗ xuất khẩu sang EU phải có nguồn gốc hợp pháp có thể kiểm chứng được, đồng thời phải có giấy phép CITES hoặc giấy phép FLEGT hoặc bảng kê gỗ theo quy định tại Nghị định 102/2020/NĐ-CP.
Để đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường mới, ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam, cho rằng các doanh nghiệp Việt Nam phải định vị rõ thị trường, bán sản phẩm gì cho thị trường nào, nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản phẩm đó được lấy ở đâu, nếu là rừng trồng trong nước thì phải xác định trồng loại cây gì phù hợp.
Cụ thể hơn, mở rộng diện tích các vùng trồng rừng nguyên liệu trong nước đạt chứng nhận FSC toàn cầu, gắn với phát hành tín chỉ carbon cho các tổ chức quốc tế. Đồng thời, đảm bảo chuỗi cung ứng xanh, từ nguyên liệu đầu vào, sử dụng năng lượng, phương pháp quản trị kinh doanh,… nhằm tuân thủ nguyên tắc giảm phát thải.