Trong giai đoạn phát triển mới 2026 - 2030, nền kinh tế và doanh nghiệp cần tập trung nâng cao năng lực và khả năng thích ứng với những biến động, bất định thay vì chỉ ứng phó đơn thuần.

Giai đoạn mới của kinh tế Việt Nam cũng là thời điểm chuỗi cung ứng toàn cầu tái cấu trúc mạnh mẽ hơn theo tiêu chí xanh, các thị trường lớn tiếp tục sử dụng các tiêu chuẩn môi trường như một rào cản thương mại với yêu cầu sản phẩm hàng hoá đạt phát thải thấp, chứng nhận bền vững. Thực tế này vừa là áp lực vừa tạo động lực cho sự chuyển đổi.
Bất chấp khó khăn, ngành điện tử vẫn thiết lập cột mốc xuất khẩu, dẫn dắt tăng trưởng và đóng góp quan trọng cho kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên, ở thời điểm “đỉnh cao”, ngành xuất khẩu chiến lược đang nỗ lực thách thức lớn: tăng trưởng bền vững. Có thể nói, dư địa tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu của ngành điện tử tỷ lệ thuận với mức độ thực hành phát triển bền vững. Theo bà Đỗ Thị Thuý Hương, Uỷ viên BCH Hiệp hội Điện tử Việt Nam, ESG - tiêu chuẩn toàn cầu đang đặc biệt quan trọng trong chuỗi cung ứng của ngành. Quy định này đã trở thành yêu cầu bắt buộc và ngày càng chi tiết hơn. Từ nay đến năm 2030, các thương hiệu lớn đều đặt ra mục tiêu cắt giảm, tiến tới trung hòa carbon. Khách hàng và chuỗi cung ứng đã bắt đầu đưa yêu cầu ESG vào điều khoản hợp đồng, đặt doanh nghiệp vào thế bắt buộc phải chuyển đổi, thích ứng để vươn lên cải thiện vị thế trong đường cong nụ cười- chuỗi cung ứng của ngành điện tử. Sức ép bền vững từ các nhà mua hàng toàn cầu đang khiến Hiệp hội Điện tử Việt Nam đẩy nhanh hơn hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp như chuẩn hóa tiêu chí ESG cho ngành, phối hợp cơ quan quản lý xây dựng chính sách thúc đẩy sản xuất bền vững…
Ông Phạm Văn Đồng - Giám đốc IPQ cho rằng, trước mắt đầu tư thực hành ESG có thể khiến chi phí của doanh nghiệp tăng lên, song về dài hạn, việc triển khai đồng bộ, có chiến lược các giải pháp về năng suất, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh có thể giúp doanh nghiệp giảm 30- 40%, thậm chí 50% chi phí. Quan trọng hơn, đầu tư cho tăng trưởng bền vững, doanh nghiệp trong nước có thể hoá giải 2 điểm yếu lớn nhất nhưng lại là điều kiện cần để đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Đó là hệ thống quản lý đạt chuẩn quốc tế và năng lực quản lý chất lượng nhà cung cấp để bảo đảm sản phẩm cung ứng không chỉ đạt tiêu chuẩn mà còn đạt chất lượng ổn định. Chỉ đáp ứng “luật chơi” của chuỗi, doanh nghiệp mới cải thiện vị thế và gia tăng số lượng trong chuỗi.
Cùng với điện tử, nhiều ngành xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế đang ghi nhận sự chuyển mình của doanh nghiệp cho các hoạt động bền vững. Theo Báo cáo của PwC Việt Nam, 80% doanh nghiệp đã hoặc đang triển khai ESG, 90% quyết định đầu tư dựa trên các tài sản vô hình như uy tín và cam kết bền vững. Đại diện Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam đánh giá: các doanh nghiệp tham gia tích cực hơn vào các hoạt động kinh tế tuần hoàn, ứng dụng công nghệ cho sản xuất bền vững, giảm phát thải tạo giá trị gia tăng cao hơn. Xoay trục thích ứng phản ánh sự linh hoạt kịp thời của doanh nghiệp trong bối cảnh thương mại toàn cầu gặp nhiều thách thức, góp phần tạo tăng trưởng thần tốc cho một số ngành xuất khẩu chủ lực như nông sản, chế biến chế tạo… trong 11 tháng qua.
Quá trình chuyển đổi của doanh nghiệp, theo ông Vũ Thái Trường - Trưởng phòng Biến đổi khí hậu, năng lượng và môi trường của UNDP Việt Nam được hỗ trợ nhiều hơn từ nhiều cơ chế chính sách hỗ trợ được Việt Nam ban hành. Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị, Kế hoạch quốc gia về kinh tế tuần hoàn, Danh mục phân loại xanh… với nhiều quy định tiến bộ, tiệm cận tiêu chuẩn quốc tế tạo nền tảng để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào các thị trường tiêu chuẩn cao.
Tuy nhiên, đại diện UNDP Việt Nam nhận thấy, trên thực tế đâu đó có những khoảng trống giữa chính sách và thực tiễn; doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp SME còn hạn chế về nguồn lực tài chính đầu tư cho công nghệ xanh, hạn chế về nhân lực có năng lực quản trị môi trường… Thực tế này đòi hỏi cần có thêm các công cụ hỗ trợ phù hợp như hướng dẫn kỹ thuật, đào tạo, cơ chế tài chính, chuẩn hóa dữ liệu và chia sẻ công khai dữ liệu ngành, dữ liệu liên ngành và tích hợp với hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia. “Điều quan trọng không phải là tốc độ mà phải quản trị được quá trình chuyển đổi” - ông Vũ Thái Trường cho biết.
Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam đang chịu tác động mạnh mẽ từ biến đổi khí hậu với thiên tai, bão lũ, lụt lội với mức độ khốc liệt vượt xa mốc lịch sử. Câu chuyện ứng phó hay giải quyết hậu quả sau thiên tai không đáp ứng được với tình hình đang thay đổi nhanh chóng. Vì vậy, trong giai đoạn phát triển mới 2026 - 2030, hỗ trợ tăng cường khả năng chống chịu tốt hơn là ưu tiên hàng đầu của UNDP để nền kinh tế, doanh nghiệp, cộng đồng thích ứng kịp thời với điều kiện mới. Theo ông Vũ Thái Trường, doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp cần được trang bị đầy đủ kỹ năng, đầu tư công nghệ, nhân lực sẵn sàng đối mặt với thay đổi thực tế. Đồng thời, cần phải xem xét, phân tích và dự báo rủi ro. Nội dung này cần được doanh nghiệp tích hợp ngay trong kế hoạch hành động để phòng ngừa, thích ứng từ sớm, từ xa.