Trong giai đoạn "nước rút" để đạt tăng trưởng cuối năm, đi cùng là thúc đẩy đầu tư mạnh mẽ, áp lực tỷ giá khiến doanh nghiệp phải tăng quản trị rủi ro.
Trong 3 tháng còn lại của năm 2025, các chuyên gia đánh giá vai trò điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ là một trong những yếu tố then chốt để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ thúc đẩy đạt mục tiêu tăng trưởng.
Tuy nhiên, NHNN cũng đối mặt với nhiều áp lực lớn. Thứ nhất là rủi ro lạm phát. Theo GS.TS Hoàng Văn Cường – Ủy viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng, Ủy viên Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội, Việt Nam đang trong giai đoạn “nước rút” để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 8% năm 2025. Đây không chỉ là con số ngắn hạn, mà còn là điều kiện bắt buộc để đưa nền kinh tế thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, tiến tới nhóm nước thu nhập cao.
Tăng trưởng cao luôn là sức ép lạm phát. Hiện cung tiền đã tăng gấp 1,4 lần so với cùng kỳ, nhưng lạm phát mới chỉ ở mức 3,25%. Vòng quay đồng tiền hiện chỉ đạt 0,68, thấp hơn nhiều so với chuẩn mực. Ông cho biết theo đó có thể rủi ro lạm phát sẽ bùng nổ vào một thời điểm nào đó.
Lạm phát cũng là yếu tố mà NHNN cho rằng cần theo dõi và thận trọng trong điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, đảm bảo các mục tiêu ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng, trong đó có bao gồm các biến số cần ổn định như tỷ giá, giá vàng.
Thứ hai, sức ép tỷ giá. Trong nửa đầu 2025, theo các chuyên gia Ngân hàng UOB, Việt Nam đồng là một trong những đồng tiền yếu nhất khu vực với mức trượt giá khoảng 3,4%. UOB cho rằng tác động từ việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất vào kỳ họp 17/9 vừa qua, không tác động lớn đến vĩ mô Việt Nam nhưng đi cùng kỳ vọng sẽ có 2 đợt cắt giảm vào tháng 11 và tháng 12, sẽ tạo dư địa cho việc giảm áp lực tỷ giá, đưa USD/VND về mức 26.300 vào quý IV/2025.
GS.TS Hoàng Văn Cường cho rằng ãi suất điều hành của Việt Nam hiện đã ở mức thấp, dư địa giảm thêm không nhiều. Do đó, giữ ổn định tỷ giá mới là ưu tiên hàng đầu. Nếu tỷ giá biến động mạnh, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư nước ngoài, nhập khẩu và ổn định vĩ mô. Tuy nhiên ông cũng nhận định dần về cuối năm, với việc giảm lãi suất của Fed và tiến trình nâng hạng của thị trường chứng khoán Việt Nam có kỳ vọng nâng hạng, nếu thành công sẽ thu hút dòng vốn ngoại, bổ sung dự trữ ngoại hối, qua đó sẽ giúp giảm sức ép tỷ giá.
Theo ông Jung Hyo Chan, Giám đốc phụ trách mảng Giao dịch ngoại hối và Phái sinh- Ngân hàng Shinhan Việt Nam, đồng nội tệ (VND) mất giá trong thời gian gần đây đã khiến chi phí vốn tăng lên, đặc biệt là đối với những doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu hoặc nguồn vốn vay ngoại tệ. Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng có được một số lợi thế nhờ khả năng cạnh tranh về giá được cải thiện trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, ông Jung Hyo Chan cho rằng nếu doanh nghiệp xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào nguyên liệu đầu vào là nhập khẩu thì chi phí tài chính và lợi nhuận cũng sẽ chịu tác động, mức độ ảnh hưởng phụ thuộc vào tỷ lệ giao dịch ngoại tệ của từng doanh nghiệp.
"Hiện chúng tôi vẫn đang theo dõi sát sao những diễn biến này và đồng thời cung cấp các giải pháp quản trị rủi ro phù hợp, bao gồm các sản phẩm phòng ngừa tỷ giá, để hỗ trợ khách hàng doanh nghiệp ứng phó hiệu quả", ông cho biết.
Đồng thời theo Giám đốc phụ trách mảng Giao dịch ngoại hối và Phái sinh, hiện Ngân hàng Shinhan Việt Nam đã xây dựng một bộ giải pháp toàn diện nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong việc quản lý rủi ro phát sinh từ biến động tỷ giá, bao gồm: Cung cấp các báo cáo, nhận định thị trường định kỳ giúp khách hàng đưa ra quyết định kịp thời và tối ưu hóa cơ cấu chi phí; Cung cấp các sản phẩm phái sinh ngoại tệ (như hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi) để phòng ngừa rủi ro; Tư vấn chuyên sâu về quản trị dòng tiền và rủi ro tỷ giá.
"Bằng cách kết hợp các sản phẩm tài chính với chiến lược quản trị rủi ro được thiết kế riêng cho từng khách hàng, chúng tôi hướng đến việc giảm thiểu tác động tiêu cực từ biến động tỷ giá và nâng cao khả năng chống chịu trước các rủi ro tài chính cho các doanh nghiệp", ông nói và khuyến nghị doanh nghiệp nâng cao các biện pháp ứng phó biến động tỷ giá, tìm hiểu, sử dụng các sản phẩm tài chính.
Chuyên gia cũng nhấn mạnh tính hiệu quả cũng như chi phí của các công cụ phái sinh phụ thuộc vào quy mô doanh nghiệp, mức độ tiếp xúc với rủi ro tỷ giá và chu kỳ kinh doanh.
Chẳng hạn đối với giao dịch kỳ hạn (forwards), đây là công cụ công cụ phòng ngừa rủi ro giúp doanh nghiệp cố định tỷ giá trong tương lai, giảm thiểu biến động bất lợi cho kế hoạch kinh doanh ngắn hạn của doanh nghiệp đồng thời giúp kiểm soát dòng tiền và xây dựng kế hoạch ngân sách hiệu quả.
Trong khi đó, công cụ hoán đổi (swaps) thường được sử dụng bởi các doanh nghiệp có nhu cầu ngoại tệ dài hạn và liên tục, chẳng hạn như doanh nghiệp đang triển khai các dự án cần vốn vay ngoại tệ hoặc có khoản nợ bằng ngoại tệ, là công cụ giúp doanh nghiệp phòng ngừa hiệu quả rủi ro lãi suất/ tỷ giá đồng thời mang lại sự linh hoạt trong việc sử dụng vốn.
Còn công cụ quyền chọn (options) mang lại sự linh hoạt lớn hơn, cho phép doanh nghiệp hưởng lợi khi tỷ giá biến động thuận lợi nhưng vẫn được bảo vệ trước những rủi ro bất lợi. Công cụ này phát sinh chi phí phí quyền chọn, do vậy thường phù hợp hơn với các tập đoàn lớn có năng lực tài chính vững mạnh. Tuy nhiên theo ông Jung Hyo Chan, hiện nay quy mô sử dụng công cụ này trên thị trường còn nhiều hạn chế và chưa phổ biến.