Nhu cầu chậm lại bên ngoài được bù đắp bởi sự tăng tốc chi tiêu đầu tư công và triển vọng tiêu dùng, hỗ trợ tăng trưởng GDP. Điều chỉnh tỷ giá USD/VND cao hơn so với dự báo đầu năm.
Trong tháng 8, số liệu của Cục Thống kê (NSO) ghi nhận tăng trưởng xuất khẩu giảm nhiệt. Mức giảm xuống thấp nhất tính trong vòng năm tháng, phản ánh tác động thuế đối ứng 20% đã có hiệu lực. Tuy nhiên, xuất khẩu vẫn duy trì tốc độ hai con số (+14,5% so với +16% trong tháng 7). Lượng hàng hóa xuất khẩu tăng +2,6% so với tháng trước.
Với tăng trưởng nhập khẩu hầu như không thay đổi (+17,7% so với +17,8% trong tháng 7), thặng dư thương mại tăng lên 3,7 tỷ USD trong tháng 8, mức cao nhất trong một năm. Sản phẩm điện tử, cụ thể là máy tính, các mặt hàng điện tử linh kiện (+50,4% so với +52,5% trong tháng 7) và điện thoại (+21,9% so với +2,2% trong tháng 7) tiếp tục tăng trưởng ở mức mạnh mẽ. Những hàng hóa này vẫn được miễn thuế đối ứng của Mỹ. Ngành công nghiệp Việt Nam có thể đang hưởng lợi từ sự chuyển dịch đơn hàng xuất khẩu, nhờ lợi thế thuế quan "tương đối". Sự tăng tốc trong xuất khẩu điện thoại có thể phản ánh qua lượng hàng Samsung Galaxy Flip 7, được phát hành để bán vào cuối tháng 7.
Hơn nữa, chúng tôi cho rằng sự bùng nổ liên tục về nhu cầu AI đã dẫn đến việc các công ty công nghệ và trung tâm dữ liệu tăng chi tiêu cho chất bán dẫn, linh kiện điện tử và máy chủ, điều này có thể đang hỗ trợ nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Theo đó, sản phẩm điện tử chiếm khoảng 34% tổng xuất khẩu, đặt Việt Nam vào nhóm các nhà xuất khẩu điện tử lớn của ASEAN.
Tuy nhiên, xuất khẩu của một số sản phẩm phi điện tử đã chứng kiến sự suy giảm, bao gồm dệt may và hàng may mặc (-4,8%; lần đầu tiên kể từ tháng 2 năm 2024), giày dép (-3,9%; lần đầu tiên kể từ tháng 1 năm 2025), sản phẩm gỗ (-3,4%; lần đầu tiên kể từ tháng 1 năm 2025) và túi xách, ví, vali, mũ nón ô dù (-2,1%). Những sản phẩm này phải chịu mức thuế đối ứng sang Mỹ 20%, cao hơn kể từ ngày 7 tháng 8.
Xuất khẩu sang Mỹ chậm lại (+18% so với +26% trong tháng 7), nhưng xuất khẩu sang Trung Quốc (+26,1% so với +20,1% trong tháng 7) và EU (+5,6% so với +0.1% trong tháng 7) đã tăng tốc trong tháng 8, dựa trên ước tính sơ bộ. Điện tử vẫn là động lực lớn nhất của nhập khẩu, với lượng hàng máy tính, điện tử, phụ tùng và linh kiện tăng +44% trong tháng 8. Nhập khẩu điện thoại và phụ tùng, máy móc và thiết bị cũng tăng mạnh. Trong khi nhập khẩu vải, nguyên liệu dệt may, da và giày dép, sợi, bông và cao su đã giảm, khi sản xuất các sản phẩm cuối cùng liên quan suy yếu do thuế quan cao hơn.
Tăng trưởng sản xuất công nghiệp tăng tốc lên +8,9% trong tháng 8, được thúc đẩy bởi sản xuất (+9,5% so với +7,9% trong tháng 7), bất chấp tăng trưởng xuất khẩu chậm hơn.
Cam kết FDI (tức là FDI đăng ký) vẫn vững chắc ở mức +27,3% so với cùng kỳ (26,1 tỷ USD) trong 8 tháng đầu năm 2025 (tương tự tăng trưởng trong tháng 1-7). Vốn FDI điều chỉnh tăng vọt +85,9% (so với +95,3% trong tháng 1-7) khi các tập đoàn toàn cầu mở rộng đầu tư vào Việt Nam, trong khi mua cổ phần và đóng góp vốn (M&A) tăng +58,8% (so với +61% trong tháng 1-7).
Cam kết mới (tức là dự án đăng ký mới) giảm -8,1% về giá trị (so với -11% trong 7 tháng 2025), bất chấp số lượng dự án mới tăng +12,6%. Cục Đầu Tư Nước Ngoài cho biết rằng các nhà đầu tư mới đang thận trọng hơn khi bắt đầu dự án tại Việt Nam, do biến động trên thị trường toàn cầu. Sản xuất chiếm phần lớn FDI đăng ký (58,5%), với cam kết tăng +7,7% so với cùng kỳ. Bất động sản chiếm tỷ lệ lớn thứ hai (20,8%), với cam kết tăng +62,4%. Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản... là nguồn FDI cam kết lớn nhất.
Giải ngân đầu tư nước ngoài tăng +8,8% so với cùng kỳ lên 15,4 tỷ USD, mức cao nhất trong 5 năm và nhanh hơn mức +8.4% trong bảy tháng đầu năm. Đầu tư ngân sách nhà nước cũng +2,5% trong 8 tháng so với cùng kỳ năm 2024. Vốn giải ngân đạt 48,3% kế hoạch hàng năm (so với 40,7% trong tháng 7).
Tăng trưởng bán lẻ là điểm sáng, tăng mạnh nhất trong tháng 8 tính trong vòng 4 tháng qua, được hỗ trợ bởi hàng hóa và chi tiêu du lịch. Theo NSO, sự tăng tốc trong tiêu dùng một phần do Lễ kỷ niệm 80 năm Quốc Khánh 2/9, thu hút lượng khách quốc tế đến trong tháng 8 đạt mức cao nhất trong năm. Hiệu suất du lịch cao vượt 23% so với năm trước đại dịch.
Lạm phát toàn phần không thay đổi ở mức 3,2% trong tháng 8, với giá tăng nhẹ +0,05% so với tháng trước. Lạm phát cốt lõi giảm xuống 3,2%, từ 3,3% trong tháng 7. Lạm phát thực phẩm và dịch vụ thực phẩm giảm nhiệt xuống +2,6% (so với +2,9% trong tháng 7). Giá giảm -0,1% so với tháng trước, nguyên do có thể khi chi phí ăn uống ngoài trời cao hơn (do mùa du lịch hè cao điểm) được bù đắp bởi sự giảm giá gạo, trái cây và rau củ. Khi diễn biến dịch tả heo ở một số địa phương làm dấy lên lo ngại về an toàn thực phẩm, ghi nhận có sự giảm giá thịt heo, mỡ động vật, nội tạng động vật và thịt gia súc.
Trong rổ hàng hóa tính CPI, chi phí vận tải giảm ở mức hẹp hơn -1,9% so với năm trước (so với -3,% trong tháng 7). Giá giảm -0.1% so với tháng trước, khi giá xăng thấp hơn bù đắp giá vận tải hành khách hàng không, thủy và đường bộ cao hơn do nhu cầu du lịch cao. Bên cạnh đó, giá xe hơi và xe máy đã qua sử dụng chứng kiến sự giảm liên tiếp, khi các doanh nghiệp áp dụng chương trình khuyến mãi để hỗ trợ mua sắm của người tiêu dùng.
Lạm phát trong nhóm nhà ở, tiện ích và vật liệu xây dựng vẫn ở mức cao 7% trong tháng 8, dù giảm nhẹ từ mức +7,1% trong tháng 7. Giá tăng +0,2% so với tháng trước, chủ yếu do chi phí thuê nhà cao hơn (do nhu cầu tăng ở các thành phố lớn trước năm học mới), điện và vật liệu bảo dưỡng nhà ở (do nhu cầu xây dựng cao giữa nguồn cung vật liệu khan hiếm).
Thị trường ghi nhận đồng VND mất giá đang làm tăng chi phí nhập khẩu, dù các đợt tăng giá đến nay vẫn ở mức vừa phải. Đồng Việt Nam mất giá -0,5% so với đô la Mỹ trong tháng 8, nhanh hơn mức -0,3% trong tháng 7. Từ đầu năm đến nay, VND đã mất giá 3,8%, nằm trong số các đồng tiền biểu hiện kém ở châu Á.
Theo NSO lưu ý rằng, một số mặt hàng đang đối mặt với chi phí sản xuất tăng, bao gồm vật liệu xây dựng (+0,5% MoM), đồ uống và thuốc lá (+0,2% MoM) và thiết bị gia dụng (+0,1% MoM). Một số sản phẩm được cho là bị ảnh hưởng bởi đồng VND mất giá, làm tăng chi phí nguyên liệu nhập khẩu. Những sản phẩm này bao gồm thuốc men/dịch vụ y tế (+0,03%) và phụ tùng ô tô (+0,2%).
Nhìn chung, chúng tôi giữ nguyên dự báo lạm phát toàn phần 3,2% trong năm 2025 (8 tháng 2025: 3,3%), dựa trên lạm phát bên ngoài ôn hòa và các biện pháp nội địa để giảm chi phí sinh hoạt.
Chúng tôi cho rằng sự mất giá đồng tiền nhanh hơn và kéo dài hơn đặt ra rủi ro đối với CPI, dù lạm phát cả năm có lẽ vẫn dưới mục tiêu 4,5% của Ngân hàng Nhà nước. Sự mất giá đồng tiền sẽ làm tăng chi phí sản xuất qua nguyên liệu nhập khẩu, gây áp lực lên nhà sản xuất và các công ty khác. Nhập khẩu của khu vực nội địa (tức là các công ty địa phương) đã giảm kể từ tháng 5, khi sự trượt giá của đồng tiền tăng tốc.
Nhóm chuyên gia phân tích về ngoại hối của chúng tôi gần đây đã điều chỉnh dự báo USD/VND cao hơn lên 26.600 vào cuối năm (tại tháng 2, dự báo 26.000 VND cho 1 USD).
Chúng tôi duy trì dự báo tăng trưởng GDP +7,3% trong năm 2025 và +6,9% trong năm 2026, với quan điểm sự chậm lại bên ngoài sẽ được bù đắp bởi đầu tư mạnh mẽ, sự tăng tốc chi tiêu hạ tầng công cộng và triển vọng tiêu dùng tích cực nhờ thị trường lao động ổn định và các biện pháp chính phủ hỗ trợ sức mua.
Chúng tôi cũng dự kiến sự chậm lại xuất khẩu ở mức tương đối vừa phải, giữa lợi thế thuế quan so với Trung Quốc và Ấn Độ, miễn trừ thuế quan điện tử và dòng vốn FDI. Tăng trưởng xuất khẩu điện tử, đặc biệt, vẫn mạnh mẽ trong nửa sau của năm. Các mức thuế “chuyển tải” 40% – với định nghĩa “chuyển tải” chưa được rõ– vẫn là rủi ro giảm đối với xuất khẩu và sản xuất, vì các nhà máy Việt Nam thường phụ thuộc nhiều hơn vào nguyên liệu nhập khẩu.
Tăng trưởng GDP quý ba theo dự báo có thể ở mức khoảng +7,5% (so với +8% trong quý 2), khi tăng trưởng sản xuất chậm hơn được bù đắp bởi sự tăng tốc trong xây dựng và tiêu dùng. Chúng tôi dự kiến Ngân hàng Nhà nước sẽ vẫn duy trì lãi suất chính sách đến cuối năm.