Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 Luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường được xây dựng sửa đổi, bổ sung 20 "điểm nghẽn" tại các Luật cần xử lý ngay trong năm 2025...
Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, sáng 04/11, Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 Luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường

Trình bày Tờ trình tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường - Trần Đức Thắng cho biết, việc xây dựng Dự án Luật nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 Luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường để thực hiện chủ trương và thực tế về sắp xếp tổ chức bộ máy; tổ chức chính quyền 02 cấp; phân quyền, phân cấp; đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh và giải quyết các "điểm nghẽn" do quy định của pháp luật, vấn đề cấp bách, phát sinh từ thực tiễn quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.
Dự án Luật được bố cục gồm 17 Điều (15 Điều sửa đổi, bổ sung 15 luật và 02 Điều về hiệu lực thi hành, điều khoản chuyển tiếp).
Theo Bộ trưởng, Dự án Luật sửa đổi, bổ sung 15 Luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường (không bao gồm Luật Đất đai, Luật Địa chất và Khoáng sản), gồm: Luật Bảo vệ môi trường; Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật; Luật chăn nuôi; Luật Đa dạng sinh học; Luật Đê điều; Luật Đo đạc và Bản đồ; Luật Khí tượng thủy văn; Luật Lâm nghiệp; Luật Phòng, Chống thiên tai; Luật Tài nguyên nước; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; Luật Thú y; Luật Thủy lợi; Luật thủy sản; Luật Trồng trọt với 03 nhóm nội dung chính.

Báo cáo thẩm tra Dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội - Nguyễn Thanh Hải nêu rõ, Ủy ban cơ bản nhất trí với các nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến 03 nhóm nội dung về phân cấp, phân quyền trong lĩnh vực Nông nghiệp và Môi trường, về cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính và giải quyết xử lý ngay được 20 "điểm nghẽn" do quy quy định của pháp luật trong 15 Luật nêu trên (trong đó 11 Luật thuộc lĩnh vực nông nghiệp và 04 Luật thuộc lĩnh vực môi trường).
Để hoàn thiện Dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho rằng, đối với Luật Chăn nuôi, đề nghị phân cấp mạnh cho địa phương về thẩm quyền cấp, cấp lại, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất thức ăn chăn nuôi (khoản 1 Điều 39) để phù hợp với điều kiện thực tế; bảo đảm phù hợp với Kết luận số 183-KL/TW của Bộ Chính trị.
Đối với Luật Thú y, đề nghị rà soát quy định về miễn công bố hợp quy trong lĩnh vực thú y (khoản 2 Điều 78)để bảo đảm linh hoạt trong quản lý nhưng vẫn gắn trách nhiệm cụ thể các cơ quan quản lý nhà nước trong kiểm soát chất lượng thuốc thú y trước khi lưu hành; làm rõ việc bãi bỏ thủ tục công bố hợp quy thuốc thú y thì có biện pháp thay thế nào để kiểm soát chất lượng thuốc sau lưu hành không, tác động thế nào lên việc kiểm soát chất lượng thuốc.
Đối với Luật Lâm nghiệp, đề nghị xem xét quy định tại khoản 2 Điều 19 về chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác bảo đảm phù hợp thực tế và tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật; thực hiện đúng Chỉ thị 13-CT/TW ngày 12/01/2017 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; đồng thời giải thích khái niệm “diện tích rừng” để xác định rõ các trạng thái rừng trong thực hiện.
Đối với Luật Tài nguyên nước, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị làm rõ quy mô, nội dung của điều chỉnh cục bộ quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa trong Dự thảo Luật (Điều 38) khi giao thẩm quyền cho Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường quyết định phê duyệt điều chỉnh và báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả; trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Môi trường và cơ chế phối hợp với các cơ quan liên quan trong việc điều chỉnh cục bộ về vận hành cắt, giảm lũ cho hạ du hiện chưa được quy định trong Dự thảo.
Ngoài những nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cũng đề nghị, đối với Luật Trồng trọt, cân nhắc kỹ việc lược bỏ nội dung về tầng đất mặt của đất chuyên trồng lúa nước (khoản 10 Điều 9); đối với Luật Đê điều, về sửa đổi bổ sung phạm vi bảo vệ đê điều (khoản 2 Điều 23 Luật Đê điều), cân nhắc giữ nguyên nội dung Điều 23 của Luật hiện hành và bổ sung nội dung giao Chính phủ quy định chi tiết để có cơ sở giải quyết các vấn đề bất cập trong thực tế; đối với Luật Bảo vệ môi trường (Điều 1 Dự thảo Luật), đề nghị nghiên cứu thêm một số nội dung như: việc bỏ yếu tố “đất trồng lúa nước từ 02 vụ trở lên” và “yêu cầu di dân, tái định cư” ra khỏi yếu tố nhạy cảm so với quy định hiện hành khi sửa đổi bổ sung điểm c khoản 1 Điều 28...