Việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công được kỳ vọng sẽ giúp cải cách thủ tục hành chính, nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong huy động, sử dụng vốn vay, đảm bảo an toàn nợ công trong bối cảnh mới.
Luật Quản lý nợ công số 20/2017/QH14 đã được Quốc hội thông qua ngày 23/11/2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2018. Hơn 7 năm thực hiện, Luật Quản lý nợ công đã đi vào cuộc sống. Quản lý nhà nước về nợ công được thống nhất một đầu mối, phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật đã huy động đầy đủ các nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển và trả nợ gốc của ngân sách nhà nước. Đồng thời, nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của các cơ quan sử dụng nợ công.
Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ công được tăng cường. Việc quản lý, kiểm soát chặt chẽ các khoản chính phủ bảo lãnh, vay về cho vay lại cũng được thực hiện hiệu quả. Những kết quả này góp phần cải thiện các chỉ tiêu an toàn nợ công và mở rộng dư địa tài khóa của Nhà nước.
Thời gian qua, việc sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước và thực hiện chủ trương phân cấp, phân quyền theo ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị đã được đẩy mạnh. Chủ trương này được thể chế hóa tại Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức Chính quyền địa phương. Việc tổ chức chính quyền địa phương theo mô hình 2 cấp cũng đã được thực hiện. Quốc hội cũng đã ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung nhiều luật tại Kỳ họp thứ 9, trong đó có Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu… Những thay đổi này đã tác động đến việc thực hiện các văn bản pháp luật, trong đó có Luật Quản lý nợ công.
Vì vậy, việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công là cần thiết nhằm hoàn thiện thể chế, đảm bảo đồng bộ với các luật Quốc hội ban hành tại Kỳ họp thứ 9 như Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Đầu tư công sửa đổi, Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp.
Một điểm cải cách nổi bật được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao là quy định chuyển từ “đề xuất dự án” sang “đề xuất khoản vay”. Theo Bộ Tài chính, Điều 29 Luật Quản lý nợ công hiện hành hướng dẫn quy trình triển khai khoản vay ODA, vay ưu đãi cho các chương trình, dự án. Cụ thể, Bộ Tài chính chủ trì xác định thành tố ưu đãi, đánh giá tác động của khoản vay mới đối với các chỉ tiêu an toàn nợ công, xác định cơ chế tài chính trong nước; báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt cùng với đề xuất chương trình, dự án sử dụng vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài.
Tuy nhiên, Luật Đầu tư công sửa đổi không còn thủ tục đề xuất dự án, do đó để đảm bảo đồng bộ, khoản 6 Điều 14 tại Dự thảo Luật về việc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề xuất dự án sẽ bãi bỏ.
Thay vào đó, Luật đề xuất bổ sung quy định Bộ, UBND tỉnh, UBND thành phố, doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, công ty con của doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ nắm giữ 100% vốn điều lệ lập đề xuất khoản vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài gửi Bộ Tài chính để đánh giá, thông báo cho Bộ, địa phương và doanh nghiệp để thực hiện các thủ tục đầu tư chương trình, dự án. Cơ chế này giúp rút ngắn quy trình, giảm khâu trung gian, tạo thuận lợi đặc biệt trong tiếp cận vốn ODA.
Đánh giá cao nội dung này, ông Nguyễn Xuân Nam, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nhận định, việc cho phép doanh nghiệp trực tiếp đề xuất khoản vay là bước cải cách quan trọng, giúp nâng cao tính chủ động và minh bạch trong tiếp cận, sử dụng vốn vay. Trước đây, thủ tục phải qua cơ quan cấp trên thường kéo dài, ảnh hưởng tiến độ dự án.
Tuy vậy, ông Nam cũng lưu ý, chi phí vay lại hiện vẫn ở mức cao với phí dự phòng rủi ro tới 1,5%/năm và phí quản lý 0,25% trên dư nợ. Điều này khiến không ít doanh nghiệp cân nhắc lựa chọn vay thương mại nếu tổng chi phí thấp hơn, dù vốn ODA vốn được xem là ưu đãi.
Từ góc độ quốc tế, ông Đỗ Việt Dũng, Cán bộ cấp cao Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam nhận định, Dự thảo Luật đã thể hiện rõ nỗ lực cải cách thể chế quản lý nợ công theo hướng thông thoáng hơn, song nhấn mạnh việc giảm phí vay là cần thiết.
“Nên nhìn vào bản chất của vấn đề từ rủi ro tín nhiệm bằng cách quy định mức phí cao với doanh nghiệp được đánh giá tín nhiệm thấp và ngược lại”, ông Dũng chia sẻ.
Ngoài ra, ông Dũng cũng cho rằng, cần bổ sung quy định về bảo lãnh nhằm hỗ trợ các khoản vay cho dự án đầu tư đổi mới sáng tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW. Đồng thời, nên cân nhắc áp dụng công cụ bảo lãnh của bên thứ ba như WB, theo đó tổ chức này có thể tham gia thẩm định và chia sẻ rủi ro đối với khoản vay.
Đồng quan điểm, nhiều ý kiến cho rằng Dự thảo Luật lần này đã cho thấy nỗ lực cải cách thể chế quản lý nợ công theo hướng minh bạch và linh hoạt hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và địa phương trong tiếp cận vốn vay. Tuy nhiên, để chính sách thực sự phát huy hiệu quả, cần song song điều chỉnh mức phí vay lại theo tiêu chí tín nhiệm của doanh nghiệp, giảm gánh nặng chi phí và khuyến khích sử dụng nguồn vốn ODA.