Bối cảnh mới đặt ra yêu cầu đổi mới căn bản tư duy chính sách để tiếp cận chủ động, dẫn dắt và điều hướng dòng vốn FDI phục vụ hiệu quả các mục tiêu quốc gia.
Viện Chiến lược và chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính) vừa công bố kết quả nghiên cứu về đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến công nghiệp hoá tại Việt Nam.
Ông Trần Toàn Thắng - Trưởng ban Quốc tế và chính sách hội nhập (Viện Chiến lược và chính sách kinh tế - tài chính) cho biết: những năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã khẳng định vai trò là động lực tăng trưởng quan trọng của kinh tế Việt Nam. Đóng góp của FDI tới tăng trưởng thể hiện qua nhiều khía cạnh, từ việc bổ sung một nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế xã hội tới mở rộng thị trường thông qua xuất khẩu, lan toả công nghệ và năng suất tới thúc đẩy cải cách thể chế.
Sự tập trung của FDI vào các cụm công nghiệp tạo ra những "cực tăng trưởng" trong các tiểu vùng, thu hút lao động, thúc đẩy sự phát triển hạ tầng giao thông kết nối, hình thành các hành lang kinh tế quan trọng. FDI cũng góp phần tái cấu trúc không gian, dịch chuyển đầu tư từ các trung tâm lớn ra các tỉnh vệ tinh, tạo ra các cực tăng trưởng mới như Bắc Ninh, các tỉnh Bắc Trung Bộ…
Các tập đoàn đa quốc gia như Samsung, Intel, LG, Canon đã biến Việt Nam thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu với các sản phẩm như điện tử, điện thoại và máy tính, dệt may, da giày…
Bên cạnh những đóng góp tích cực song thu hút FDI vốn được kỳ vọng là công cụ quan trọng thúc đẩy liên kết và lan tỏa công nghệ trong nền kinh tế lại chưa được mong muốn, chưa tạo ra được nhiều liên kết. Liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước yếu và có xu hướng suy giảm, từ 35% năm 2019 xuống còn 18% vào năm 2023.
Thực tế này một phần là do năng lực nội tại của doanh nghiệp trong nước tương đối yếu. Phần khác, FDI vào công nghiệp chế biến chế tạo chủ yếu ở phân đoạn lắp ráp, có giá trị gia tăng thấp và dựa trên nguồn linh kiện, nguyên liệu nhập khẩu.
Nghiên cứu của Viện Chiến lược và chính sách kinh tế - tài chính nhận định: bối cảnh trong thời gian tới có cả ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới dòng vốn FDI vào Việt Nam cũng như đóng góp của khu vực này tới công nghiệp hoá. Mặc dù Việt Nam đang nổi lên là địa điểm đầu tư hấp dẫn nhưng những điểm nghẽn về lao động, hạ tầng sẽ là những điểm yếu cốt lõi cho dòng vốn này.
Chưa kể, những tác động của cách mạng công nghiệp 4.0, xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng cũng như các mục tiêu công nghiệp hoá đầy tham vọng của Việt Nam đang đặt ra những yêu cầu mới trong thu hút FDI. Trong đó mấu chốt là thay đổi căn bản trong tư duy chính sách, chuyển từ thu hút FDI bằng mọi giá sang cách tiếp cận chủ động, dẫn dắt và điều hướng dòng vốn FDI phục vụ hiệu quả các mục tiêu quốc gia.
Từ quan điểm trên, nhóm nghiên cứu đề xuất 6 bước cải cách đột phá trong thu hút và sử dụng FDI. Trong đó, cần thiết cải tổ toàn diện chính sách ưu đãi đầu tư theo hướng có mục tiêu, dựa trên hiệu quả và có điều kiện ràng buộc, chấm dứt ưu đãi dàn trải, thay bằng khung ưu đãi mới, có chọn lọc cao.
Mức độ ưu đãi phụ thuộc trực tiếp vào kết quả thực hiện các cam kết của dự án FDI thông qua các chỉ số như tỷ lệ chi tiêu cho R&D tại Việt Nam; mức độ chuyển giao công nghệ; tỷ lệ nội địa hóa; mức độ đầu tư vào đào tạo nhân lực chất lượng cao. Đi kèm với những cải cách này là cải tổ căn bản chính sách công nghiệp ở Việt Nam, tạo điều kiện để dòng FDI lan toả tác động tích cực về công nghệ, năng suất.
Thứ hai, tăng cường năng lực cho doanh nghiệp trong nước và xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ thực chất thông qua “chương trình phát triển nhà cung cấp cấp quốc gia” và cung cấp các gói hỗ trợ phù hợp với quy mô doanh nghiệp, đặc thù ngành nghề; xây dựng nền tảng kết nối thông tin giữa doanh nghiệp FDI và nhà cung ứng trong nước để giải quyết vấn đề thiếu thông tin.
Thứ ba, đột phá trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao với việc thúc đẩy thực chất mô hình hợp tác chiến lược "Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp FDI" một cách thực chất.
Thứ tư, thiết lập khung quản trị thu hút FDI có sự phối hợp liên ngành, liên vùng: Xây dựng một cơ chế điều phối cấp quốc gia để phân định rõ vai trò giữa trung ương và địa phương nhằm chấm dứt "cuộc đua xuống đáy" về ưu đãi giữa các tỉnh, đảm bảo thu hút FDI có quy hoạch và chiến lược thống nhất.
Thứ năm, tăng cường năng lực quản trị môi trường đối với FDI: siết chặt việc thực thi pháp luật môi trường, áp dụng quy trình đánh giá tác động môi trường một cách độc lập và minh bạch, đồng thời tăng nặng các chế tài xử phạt. Song song, tiếp tục hoàn thiện chính sách để khuyến khích và thu hút FDI xanh, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Thứ sáu, nâng cao năng lực thể chế và hiệu quả thực thi chính sách: nâng cao năng lực thẩm định dự án cho cán bộ địa phương; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường minh bạch và quyết liệt giảm chi phí không chính thức để tạo môi trường kinh doanh thực sự công bằng.