Theo khảo sát, chỉ có hơn 1/5 số doanh nghiệp khảo sát nhận được hỗ trợ về miễn, giảm, giãn thuế, phí và cơ cấu nợ, đa số doanh nghiệp có hưởng hỗ trợ giảm tiền điện, giá điện…
Thông tin trên được nêu tại Hội thảo trực tuyến công bố kết quả nghiên cứu “Giải pháp thực hiện hiệu quả chính sách phục hồi sản xuất, kinh doanh của doanh.
Theo PGS.TS Lê Thanh Sang - Viện trưởng Viện Khoa học và xã hội vùng Nam bộ, khảo sát chỉ tập trung khu vực doanh nghiệp sản xuất về những vấn đề liên quan như tính khả thi của các tiêu chí trong Bộ tiêu chí an toàn sản xuất tại doanh nghiệp (theo Quyết định số 3328).
Theo đó, có hơn 42% cho là rất khả thi, hơn 39% nhận xét khả thi và chỉ 18,6% nói ít khả thi. Những yếu tố ít khả thi tập trung các tiêu chí về mô hình “3 tại chỗ”, kiểm soát người lao động tại nơi lưu trú, xét nghiệm, phải bảo đảm mật độ trong sản xuất là 4m2 cho một công nhân và cách nhau 2 mét tại nhà máy.
Liên quan thực hiện chính sách hỗ trợ, dù hầu hết các doanh nghiệp ở TP.HCM đều bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh nhưng chỉ có hơn 1/5 số doanh nghiệp khảo sát chỉ nhận được hỗ trợ về miễn, giảm, giãn thuế, phí và cơ cấu nợ, đa số doanh nghiệp có hưởng hỗ trợ giảm tiền điện, giá điện…
Trong kế hoạch phục hồi, 44% và 29% số doanh nghiệp có kế hoạch phục hồi toàn bộ và phần lớn hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy vậy, có 31% phục hồi 1 phần và 24% doanh nghiệp chưa xác định thời gian quay lại sản xuất, phụ thuộc vào các đánh giá tiêu chí.
“Có khoảng 2/3 doanh nghiệp phục hồi phần lớn hoặc toàn bộ nhưng vẫn còn một bộ phận đang thăm dò và một số nhỏ cho biết có thể chuyển bớt đơn hàng đi nơi khác, 4/25 doanh nghiệp FDI và 4/75 doanh nghiệp nội địa cho biết đã chuyển bớt đơn hàng đi các nước, chiếm chưa tới 10%. Cuộc khảo sát nhanh, số doanh nghiệp tham gia khảo sát còn hạn chế, song những chi tiết này cũng đáng lưu ý”, PGS-TS Lê Thanh Sang cho biết.
Ngoài ra, khảo sát cũng đánh giá tính hiệu quả trong thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp của các Bộ, ngành, địa phương theo tinh thần của Nghị quyết 105, theo PGS-TS Lê Thanh Sang, có đến 74% doanh nghiệp nhận xét sự phối hợp giữa các địa phương chưa đồng bộ, 55% cho biết chưa được hướng dẫn của các bộ ngành và địa phương.
Kết quả về phục hồi sản xuất và khó khăn của doanh nghiệp, khảo sát cho thấy hơn 46% doanh nghiệp khẳng định rất khó phục hồi và 37,7% nói khó khăn, chỉ 16,2% là ít khó khăn. Đặc biệt, có ít nhất 35% doanh nghiệp đang gặp khó khăn về khả năng thanh toán nợ đáo hạn, tiền lãi. Tuy nhiên, vấn đề nan giải nhất hiện nay đối với doanh nghiệp là chi phí sản xuất tăng, trở ngại trong vận chuyển hàng hóa liên tỉnh và thiếu hụt lao động.
Trong khi đó, GS.TS Đặng Nguyên Anh - Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm khẳng định, đây là giai đoạn rất khó khăn cho doanh nghiệp, tỷ lệ doanh nghiệp lại khó tiếp cận chính sách hỗ trợ vẫn rất lớn. Trong khi Bộ tiêu chí được viết để áp dụng cho tình hình mới là “sống chung với dịch” nhưng nhiều quy định được thiết kế trong giai đoạn “zero COVID” nên thiếu tính khả thi.
Chẳng hạn, quy định đưa rước công nhân theo 1 cung đường, 2 điểm đến, trên xe đi làm phải ngồi đúng vị trí hằng ngày, đề xuất siết chặt yêu cầu xét nghiệm, vắc xin… là rất khó trong tình hình hiện nay.
“Bộ tiêu chí hoạt động sản xuất an toàn áp dụng cho doanh nghiệp tại TP.HCM phải được điều chỉnh lại. Vắc xin quan trọng nhưng không thể duy nhất, trong công cuộc phòng chống dịch phải xã hội hóa công tác an sinh. Đó là phải cải thiện điều kiện sống cho người lao động. Yếu tố an sinh xã hội lâu nay cứ được hiểu là những gói cứu trợ thực phẩm cho người lao động mà không nói vấn đề họ phải cần là sống trong môi trường vệ sinh, an toàn để dịch không dễ bùng phát”, GS-TS Đặng Nguyên Anh đề xuất.
PGS.TS Trần Đình Thiên - Chuyên gia kinh tế đánh giá những gợi ý trong khảo sát sát sườn với doanh nghiệp. Tuy nhiên, báo cáo còn thiên về đánh giá nhận định thái độ của doanh nghiệp với chính sách hơn là xem thực trạng họ yếu mạnh thế nào. Khả năng của doanh nghiệp sau khi mở cửa nến kinh tế có thể đứng thẳng để chạy hay đứng lom khom, hay phải trườn bò mới đứng nổi.
“Chẳng hạn bị đứt gãy chuỗi cung ứng, doanh nghiệp mất bao nhiêu thời gian để phục hồi lại? Triển vọng phục hồi thị trường trong các điều kiện chung đối với doanh nghiệp thế nào? Nếu doanh nghiệp đưa ra dự báo họ tiếp tục đứt gãy chuỗi sản xuất vì chi phí, lạm phát… thì góp ý về chích sách nên thế nào. Nếu có nhận định một mức nào đó về nguy cơ trong thời gian tới, các quyết sách sẽ rõ ràng hơn”, PGS.TS Trần Đình Thiên góp ý.
Theo PGS.TS Trần Đình Thiên, TP.HCM và vùng Đông Nam Bộ trong thời gian qua bị đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất nặng nề, mọi cái thay đổi đảo lộn rất lớn. Thế nên, cách tổ chức nguồn lực lao động, lưu thông trong lao động và khả năng kết nối lại chuỗi lao động của địa phương phải tính sớm. Làm sao để người dân từ miền Bắc, miền Trung và cả miền Tây về khu vực sản xuất này dễ dàng trong tương lai?
“Muốn vậy, phải có những đảm bảo an toàn về việc làm, chỗ ở cho người lao động. Cuối cùng, với doanh nghiệp, nguy cơ lớn nhất là “đứt” vốn nhưng các điều kiện vay vốn vẫn áp dụng như khi chưa xảy ra biến cố dịch vừa rồi làm sao đáp ứng vốn cho phục hồi. Thế nên, chính sách phải “sát sườn” và thay đổi các điều kiện này”, PGS.TS Trần Đình Thiên nhấn mạnh.
Có thể bạn quan tâm
TP.HCM sẽ có khu đô thị ngầm giữa trung tâm
11:00, 23/10/2021
TP.HCM sẽ đấu giá nhà, đất ở Thủ Thiêm trong tháng 11/2021
14:54, 19/10/2021
TP.HCM đề nghị xử lý nghiêm trục lợi chính sách hỗ trợ COVID-19
17:06, 18/10/2021
TP.HCM tiếp tục lùi thời hạn thu phí hạ tầng cảng biển
14:58, 18/10/2021
Đề xuất 15.900 tỷ đồng làm cao tốc TP.HCM – Mộc Bài
14:22, 18/10/2021