Tăng trưởng tín dụng cao khiến một số nhà băng sẽ hướng đến ưu tiên tối ưu hóa danh mục cho vay, trong bối cảnh chưa hoàn toàn được dỡ hạn mức tín dụng...
Tín dụng tăng là điểm sáng hoạt động của hệ thống ngân hàng khi hầu hết các nhà băng Việt Nam vẫn có thu nhập lãi chi phối cơ cấu thu nhập.

Trong quý III/2025, toàn hệ thống tăng 3,5% so với quý trước. Lũy kế 9 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng đạt 13,4% so với đầu năm – mức cao nhất trong vòng 15 năm qua. Theo NHNN cập nhật, đến 30/10, tín dụng tiếp tục tăng trưởng đạt 15%.
Phân tích cấu trúc cho vay, cho vay trung và dài hạn có xu hướng gia tăng hơn cho vay ngắn hạn kể từ quý 2/2025. S&I Ratings cho biết nhận thấy lĩnh vực Xây dựng duy trì mức tăng trưởng cao trong 3 quý liên tiếp, với dư nợ cho vay tăng mạnh tại VPB (+15,3 nghìn tỷ đồng), HDB (+12 nghìn tỷ đồng), KLB (+13 nghìn tỷ đồng) và LPB (+8,4 nghìn tỷ đồng) kể từ đầu năm.
Kết quả này là phù hợp với diễn biến thị trường, theo ông Nguyễn Thế Minh - Giám đốc Phân tích Chứng khoán Yuanta Việt Nam. Ông Minh cho biết một trong những động lực - điểm đến đẩy tăng trưởng tín dụng, theo ông, là đầu tư công, hạ tầng và xây dựng phục vụ cho trụ cột này.
Bên cạnh đó, một số ngân hàng chuyên bán lẻ VIB, BVB đẩy mạnh cho vay bất động sản trong quý III, với mức tăng lần lượt 62% và 49% so với quý trước.
Cho vay các công ty chứng khoán tiếp tục là điểm sáng nổi bật, ghi nhận mức tăng mạnh trên diện rộng với tổng giải ngân ước đạt ít nhất hơn 44 nghìn tỷ đồng trong quý III. Lưu ý rằng đây cũng là quý sôi động nhất của TTCK với các kỷ lục liên tiếp được lập, dòng tiền vào thị trường mạnh mẽ và để lại lũy kế margin đến cuối tháng 9 cũng lên mức kỷ lục. Các ngân hàng có hệ sinh thái tài chính và công ty chứng khoán đều có dư nợ cho vay chứng khoán. Chẳng hạn nhóm dẫn đầu về margin như TCBS, SSI, VPBankS, VPS, HSC, hay CTCK có tăng trưởng dư nợ mạnh mẽ như VPBankS, VIX... thì có thể lọc và thấy rõ đâu là những tên tuổi nằm trong hệ sinh thái tài chính ngân hàng.
Về chất lượng tài sản, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ổn định quanh mức 2,0% trong quý III (-3 điểm cơ bản so với quý trước). Tuy nhiên, nếu nhìn vào con số tuyệt đối, nợ xấu vẫn tăng ròng 2,6% so với cuối quý II/2025 mặc dù tín dụng duy trì tăng trưởng cao. Hãng đánh giá tín nhiệm nhận xét, hoạt động xóa nợ xấu tiếp tục đóng vai trò quan trọng giúp giảm tỷ lệ nợ xấu, với tổng giá trị xử lý đạt 21,6 nghìn tỷ đồng (+20% so với cùng kỳ). Tốc độ hình thành nợ xấu mới toàn ngành tiếp tục xu hướng giảm mạnh xuống 0,05% (so với 0,29% của quý trước), trong khi chi phí dự phòng tín dụng đi ngang 0,3%, giúp giảm áp lực lên chi phí tín dụng trong ngắn hạn.
Lưu ý tốc độ hình thành nợ xấu mới là một tín hiệu vô cùng tích cực trong bối cảnh dư tín dụng mở rộng. Tuy nhiên một chuyên gia cho rằng yếu tố này cần theo dõi trong quý IV khi nhiều vùng bị thiệt hại bởi bão lũ và các ngân hàng đang thực hiện yêu cầu giảm lãi tới 2%, cơ cấu lại thời hạn trả nợ nhằm hỗ trợ khách hàng.
Tín hiệu tích cực khác tại cuối quý III, là tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) cải thiện lên mức 84% (từ mức 80% của quý trước). "Chúng tôi cho rằng tỷ lệ nợ xấu có thể đã tạo đáy trong ngắn hạn và nhiều khả năng sẽ nhích nhẹ trong các quý tới. Tín dụng tăng mạnh trong giai đoạn cuối năm sẽ là yếu tố kéo giảm tỷ lệ nợ xấu trên dư nợ cho vay, song diễn biến nợ nhóm 2 – tăng ròng 14% so với quý trước – là tín hiệu sớm cho thấy rủi ro hình thành nợ xấu mới vẫn hiện hữu", chuyên gia S&I Ratings đánh giá.
Như nhiều chuyên gia nhận định và phân tích, dữ liệu từ báo cáo tài chính của các ngân hàng cũng thể hiện đồng nhất xu hướng giảm nhẹ của biên lãi thuần (NIM) toàn ngành, xuống còn 3,15% (-3 điểm cơ bản so với quý trước). Một số yếu tố chính tác động đến NIM bao gồm: Ở chiều tài sản, lợi suất dần cải thiện khi nhích nhẹ trong 2 quý liên tiếp (+3 điểm cơ bản so với quý trước trong quý III), chủ yếu nhờ các ngân hàng đẩy mạnh cho vay trung và dài hạn. Ngoài ra, đà giảm của lãi suất cho vay có xu hướng chững lại kể từ đầu quý III.
Dù vậy, chi phí vốn tăng cao hơn (+13 điểm cơ bản) là nguyên nhân chính khiến NIM tiếp tục thu hẹp. Đáng chú ý, chi phí vay các TCTD khác của toàn ngành tăng mạnh 41 điểm cơ bản, với dư nợ vay đạt mức tăng hơn 20% so với quý trước tại thời điểm cuối quý III/2025.
NIM của hệ thống theo đó có thể cải thiện đi ngang hay tăng quý IV là bài toán thách thức, khi ghi nhận từ thực tế xu hướng tăng lãi suất huy động thậm chí ở kỳ hạn dài dang được các ngân hàng bật tín hiệu điều chỉnh; đặc biệt các chương trình hút huy động tiết kiệm thông qua khuyến mãi, ưu đãi "khủng" đều phải được cộng thêm vào chi phí vốn ngân hàng.
Theo S&I Ratings, thu nhập ngoài lãi tiếp tục là trụ cột nâng đỡ lợi nhuận toàn ngành trong quý III, với mức tăng 29% yoy – cao gấp hơn 2 lần tốc độ tăng của thu nhập lãi thuần 13% yoy. Mặc dù thu từ nợ xấu đã xóa vẫn là động lực chính (đạt 12,5 nghìn tỷ đồng, +20% yoy), chuyên gia cho rằng ấy có sự tăng trưởng tốt ở các mảng còn lại. Thu từ phí dịch vụ tăng 19% yoy, chủ yếu nhờ mảng bancansurrance tăng mạnh 56% yoy – đánh dấu mức phục hồi cao nhất trong 3 quý gần đây và thu từ mảng môi giới đạt mức cao kỷ lục. Như vậy, bảo hiểm bán chéo có thể nói đang trở lại và hứa hẹn là mảnh đất màu mỡ cho thu nhập ngoài lãi. Xu hướng ngân hàng lập công ty bảo hiểm bổ trợ cho thông tin này.
Trong quý III, các nhà kinh doanh tiền tệ, dịch vụ tài chính ngân hàng cũng ghi nhận thu nhập từ đầu tư kinh doanh chứng khoán. Cụ thể, đà tăng mạnh mẽ của thị trường chứng khoán khi VN-Index thiết lập đỉnh lịch sử mới trong quý III, đã thúc đẩy đáng kể hoạt động môi giới, ngân hàng đầu tư và tự doanh của các công ty chứng khoán thuộc sở hữu trực tiếp của ngân hàng. Nhờ đó, lợi nhuận từ hoạt động mua bán chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư của các ngân hàng cũng tăng mạnh (gấp 13 lần yoy) – với mức thu nhập tăng ấn tượng tại VPB (+828% yoy), TCB (+134% yoy) (2 ngân hàng sở hữu CTCK con có tăng trưởng mạnh mẽ với dư nợ margin và tốc độ tăng trưởng dư nợ lớn).
Ngoài ra, hoạt động kinh doanh ngoại hối tiếp tục khởi sắc (+18% yoy), đóng góp tốt cho mức tăng thu ngoài lãi toàn ngành. Có thể thấy chênh lệch lãi suất VND–USD duy trì ở mức cao đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động ngoại hối của ngân hàng, từ việc gia tăng giao dịch giao ngay, mở rộng các nghiệp vụ phái sinh cho đến củng cố nguồn ngoại tệ và ổn định kỳ vọng tỷ giá. Điều này cũng đã từng được một chuyên gia, giám đốc mảng ngoại hối của một nhà quốc tế cho rằng, trở thành động lực để các bên găm giữ ngoại tệ, khiến cung ngoại tệ trở nên có vẻ khan hiếm trong giai đoạn vừa qua.
Tuy nhiên, với các giải pháp điều hành linh hoạt của cơ quan quản lý + dư địa từ kỳ vọng lãi suất USD giảm, tỷ giá có kỳ vọng hạ nhiệt sẽ giảm động cơ găm giữ USD, chưa kể cung dồi dào từ thanh toán xuất khẩu cuối kỳ và kiều hối.
Nhìn chung, với tốc độ tăng trưởng đạt được trong 9 tháng 2025, chuyên gia cho rằng tín dụng toàn ngành có thể đạt mức tăng 19%–20% cho cả năm – tiếp tục là mức cao nhất kể từ năm 2011 (phù hợp với dự báo của NHNN tại họp báo cuối quý III năm nay). Nền kinh tế duy trì tích cực và môi trường chính sách thuận lợi vẫn là động lực chính thúc đẩy nhu cầu vốn. Tuy vậy, áp lực huy động vốn cùng với mặt bằng lãi suất đã và đang dần gia tăng, đặt ra thách thức cân bằng giữa nhu cầu tín dụng và chi phí huy động của toàn ngành. Bên cạnh đó, tăng trưởng tín dụng của nhiều ngân hàng hiện đã tiệm cận hạn mức được NHNN cấp, do đó tối ưu hóa danh mục cho vay sẽ là trọng tâm của các ngân hàng trong giai đoạn cuối năm.