Tăng trưởng được dự báo sẽ chững lại còn 6,6% năm 2019, do tín dụng được thắt lại, tiêu dùng tư nhân giảm đà và nhu cầu bên ngoài yếu hơn.
Báo cáo “Vượt qua trở ngại” cập nhật tình hình kinh tế tại các quốc gia khu vực Đông Á và Thái Bình Dương vừa Ngân hàng Thế giới (WB) công bố hôm nay (24/4) dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam chững lại, còn 6,6% năm 2019.
Hai năm trước đó, số liệu được ghi nhận lần lượt là 6,8% và 7,1%. Nguyên nhân đến từ việc tín dụng được thắt lại, tiêu dùng tư nhân giảm và nhu cầu bên ngoài yếu hơn.
Mức tăng trưởng theo dự báo của WB vẫn nằm trong khoảng mục tiêu 6,6 - 6,8% mà Quốc hội đề ra, song thấp hơn kỳ vọng 6,8% mà Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh tại kỳ phiên họp thường kỳ Chính phủ đầu tháng 4.
Về trung hạn, WB dự báo sẽ xoay quanh mốc 6,5% vào các năm 2020, 2021 do tác động tăng theo chu kỳ như hiện này sẽ giảm dần.
WB cho rằng mặc dù viễn cảnh trước mắt được cải thiện nhưng vẫn còn những rủi ro do việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và khu vực ngân hàng bị trì hoãn, đầu tư công suy giảm...
Báo cáo cho rằng chính sách tiền tệ của Việt Nam tiếp tục phải cân đối giữa hai mục tiêu, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Mặc dù chính sách tiền tệ nhìn chung vẫn theo hướng tạo thuận lợi nhưng Ngân hàng Nhà nước đã từng bước thắt chặt tín dụng trong năm 2018 bằng cách đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng thương mại và kiểm soát cho vay các lĩnh vực rủi ro cao (bất động sản, chứng khoán, và tiêu dùng).
Thanh khoản trong khu vực ngân hàng được thắt lại đáng kể, do tốc độ tăng tiền gửi giảm khiến lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn ngắn bị đẩy cao.
Do điều kiện huy động vốn chặt chẽ hơn, tăng trưởng tín dụng hạ xuống khoảng 14% trong năm 2018 (so cùng kỳ năm trước) từ mức 18% năm 2017. Mặc dù vậy, bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp và các hộ gia đình có tỷ lệ đòn bẩy ngày càng cao - tỷ lệ tín dụng trên GDP của Việt Nam hiện rơi vào khoảng 135%.
Mặc dù tình hình thương mại thế giới có nhiều biến động, cán cân kinh tế đối ngoại của Việt Nam vẫn tiếp tục cải thiện. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt nam ước tính tăng 13,2% trong năm 2018 - thấp hơn so với mức 21,8% năm 2017, nhưng cao hơn đang kể so với tỷ lệ tăng trưởng thương mại toàn cầu.
Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa giảm mạnh còn 11,1% so với 21,9% năm 2018, cho thấy kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trung gian và phục vụ đầu tư giảm mạnh. Hoạt động thương mại sôi động đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất trên thế giới, với tỷ lệ thương mại trên GDP trong năm đạt gần 200%.
Theo WB, xuất khẩu tốt cũng giúp Việt Nam duy trì được thặng dư tài khoản vãng lai trong tám năm liên tiếp. Thặng dư tài khoản vốn của Việt Nam vẫn ở mức cao do dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn được duy trì ở mức cao.
WB đánh giá, tình hình tài khóa của Việt Nam cũng đã cải thiện khi bội chi ngân sách chung ước tính giảm xuống còn 4% GDP trong năm 2018 so với 4,3% năm 2017 và 4,9% năm 2016. Trong cùng kỳ, chi ngân sách ước giảm còn 27,6% GDP trong năm 2018, thấp hơn so với 28,5% năm 2016 và 27,8% năm 2017, chủ yếu do cắt giảm chi đầu tư và hợp lý hóa các nội dung chi có thể chủ động khác.
Tuy vậy, báo cáo cũng nhìn từ trong nước, các nỗ lực tái cơ cấu DNNN và khu vực ngân hàng bị trì hoãn có thể gây ảnh hưởng bất lợi đến tình hình tài chính – vĩ mô, làm suy giảm triển vọng tăng trưởng và tạo ra các nghĩa vụ cho khu vực công.
Đầu tư công tiếp tục suy giảm có thể ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển dài hạn. Các nỗ lực củng cố tình hình tài khóa tiếp theo cần tập trung kiềm chế tăng chi thường xuyên và đồng thời phải ổn định được kết quả thu.
Bên cạnh đó, kinh tế Việt Nam vẫn dễ bị tổn thương với những biến động tiếp theo của nền kinh tế toàn cầu do độ mở cửa thương mại lớn, dư địa chính sách tiền tệ và tài khóa còn tương đối hạn chế. Khi sức cầu yếu đi và biến động tài chính tăng lên, WB khuyến cáo Việt Nam cần tiếp tục tập trung quản lý kinh tế vĩ mô theo hướng chủ động và thận trọng ứng phó với các cú sốc có thể xảy ra trong cả ngắn và trung hạn.
WB dự báo, áp lực lạm phát vẫn ở mức vừa phải trong điều kiện sức cầu trên toàn cầu giảm nhẹ, giá cả năng lượng và lương thực thực phẩm ở mức vừa phải. Cả 3 năm 2019, 2020, 2021 dự báo lạm phát của Việt Nam ở mức khoảng 4%.