Nghị quyết Xây dựng quốc gia khởi nghiệp do Bộ Khoa học và Công nghệ soạn thảo đang được gửi lấy ý kiến của các cơ quan, các tỉnh thành trước khi trình Bộ Chính trị.

Gần đây, Bộ Chính trị đã ban hành 4 Nghị quyết, được coi là “bộ tứ chiến lược” cho tổng thể phát triển quốc gia, gồm các Nghị quyết số 57, 59, 66, 68-NQ/TW. Các nghị quyết là nền tảng chiến lược, kiến tạo môi trường phát triển chung cho cả quốc gia trong dài hạn, tạo bệ đỡ cho việc xây dựng Quốc gia khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam.
Theo tờ trình của Đảng ủy Bộ Khoa học và Công nghệ, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam ngày càng được quan tâm phát triển, với sự hình thành của khoảng 4.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trong đó có một kỳ lân được định giá trên 01 tỷ USD (như MoMo và Sky Mavis) và nhiều doanh nghiệp trên 100 triệu USD. Hạ tầng hỗ trợ cũng phát triển đáng kể với 208 quỹ đầu tư, 84 vườn ươm, 40 tổ chức thúc đẩy kinh doanh, cùng hơn 20 trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo tại địa phương và quốc gia.
Năm 2025, chỉ số hệ sinh thái khởi nghiệp toàn cầu của Việt Nam xếp thứ 55, các trung tâm khởi nghiệp lớn như TP Hồ Chí Minh lần đầu tiên lọt top 5 Đông Nam Á (hạng 110 toàn cầu), Hà Nội tăng lên hạng 148, và Đà Nẵng tăng 130 bậc. Các lĩnh vực thế mạnh của khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam gồm công nghệ tài chính, công nghệ giáo dục, thương mại điện tử và công nghệ chuỗi, khối.
Tuy nhiên, khởi nghiệp Việt Nam đang trong quá trình hình thành vẫn còn những hạn chế. Trong đó, số lượng doanh chủ, doanh nhân, doanh nghiệp còn thấp so với quy mô dân số; số lượng, quy mô kỳ lân công nghệ còn hạn chế, khả năng mở rộng ra thị trường quốc tế của nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp còn yếu; vốn đầu tư mạo hiểm có xu hướng giảm.
Bên cạnh đó, đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành văn hóa chung của người dân và doanh nghiệp. Tư duy sẵn sàng thử nghiệm cái mới, chấp nhận rủi ro, học hỏi từ thất bại chưa thấm nhuần sâu rộng trong xã hội và doanh nghiệp. Việt Nam chưa có mô hình quản trị, quản lý phù hợp cho những mô hình kinh doanh mới của nhân, đặc biệt trên nền tảng số. Ngoài ra, hệ sinh thái khởi nghiệp còn rời rạc, chưa phát huy được tinh thần đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội.
Nghị quyết về Xây dựng quốc gia khởi nghiệp sáng tạo được xây dựng trên quan điểm coi đây là chiến lược quốc gia dài hạn, sự nghiệp của toàn dân, hình thành văn hóa đổi mới sáng tạo trong toàn dân, đưa đổi mới sáng tạo trở thành lối sống, phong cách của mọi người dân, tổ chức. Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là trụ cột đột phá, là lợi thế cạnh tranh, là cơ hội để bứt phá.
Khởi nghiệp được dựa trên khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, có khả năng tăng trưởng nhanh, phá vỡ mô hình cũ đóng vai trò nòng cốt, lan tỏa tinh thần khởi nghiệp đến toàn xã hội. Thúc đẩy khởi nghiệp toàn dân lấy tinh thần đổi mới sáng tạo là yếu tố cốt lõi, theo hướng rộng khắp, bao trùm và đại chúng.
Nghị quyết cũng đặt mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Cụ thể, đến năm 2030, chủ thể kinh doanh đạt 5 triệu, trong đó có 1 triệu “doanh nghiệp một người”; 10.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. 100% cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng có nội dung khởi nghiệp trong chương trình đào tạo…; hình thành mạng lưới tối thiểu 300 điểm, trung tâm, cụm đổi mới sáng tạo trên toàn quốc.
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu GII thuộc nhóm 40 quốc gia hàng đầu thế giới; chỉ số hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo thuộc nhóm 45 quốc gia hàng đầu thế giới. Đến năm 2045 phấn đấu đạt tỷ lệ 10 người dân có một người khởi nghiệp, 25 người dân có một doanh nghiệp và khoảng 5.000 người dân có một doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Việt Nam thuộc nhóm 30 quốc gia dẫn đầu toàn cầu về đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo.
Với những mục tiêu được đặt ra như trên, Nghị quyết đã dự thảo một số nhóm giải pháp cụ thể. Trước tiên, đó là cần đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức, lan tỏa văn hóa khởi nghiệp sáng tạo trong toàn dân, toàn xã hội, Khởi nghiệp sáng tạo không thể tách rời với phát triển hạ tầng, hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp công nghệ số.
Nghị quyết còn đề xuất hỗ trợ, nuôi dưỡng ý tưởng đổi mới sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; phát triển thị trường vốn, tài chính cho doanh nghiệp, đầu tư mạo hiểm. Việc ươm tạo, hỗ trợ giai đoạn tăng tốc, phát triển thị trường cũng là một trong những giải pháp được đưa ra, nhằm tạo sự đột phá trong ngành, lĩnh vực cụ thể; hình thành các “kỳ lân” vươn tầm quốc tế.