Đơn giá định mức thấp hơn giá thị trường, thanh quyết toán kéo dài và khó tiếp cận vốn tín dụng đang khiến các nhà thầu xây dựng tại các công trình trọng điểm quốc gia.
Mặc dù giữ tinh thần “vượt nắng, thắng mưa” theo chỉ đạo của Thủ tướng để hoàn thành các dự án, công trình trọng điểm quốc gia, song nhà thầu đang phải đối mặt với nhiều bất cập, khó khăn rất lớn về hành lang pháp lý và cơ chế vận hành.
Các dự án trọng điểm quốc gia hiện nay đều là các dự án đầu tư công dùng vốn nhà nước nên việc thanh toán đều dựa trên cơ sở hệ thống đơn giá định mức do nhà nước ban hành và các quy định trong Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu.
Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải đã cập nhật, bổ sung hệ thống định mức đơn giá theo yêu cầu của thị trường (gần đây nhất là Thông tư 09 của Bộ Xây dựng bổ sung 250 định mức).
Tuy nhiên, do công nghệ xây dựng luôn đổi mới nên việc đáp ứng đầy đủ, kịp thời yêu cầu của thị trường về hệ thống định mức, đơn giá là điều khó thực hiện đặc biệt là các định mức chuyên ngành, ví dụ định mức về cầu dây văng, về khoan cọc nhồi.
Không những vậy, hiện bộ đơn giá xây dựng của địa phương thường thấp hơn giá nhà thầu phải mua khoảng 10 -15%. Đơn giá nhân công cũng cách rất xa chi phí nhân cộng thật nhà thầu phải chi trả.
Ví dụ dự án sân bay Long Thành chủ đầu tư được chỉ đạo rút ngắn tiến độ so với hợp đồng đã ký, nhưng chi phí không được điều chỉnh. Mặc dù khi rút ngắn tiến độ, chi phí nhân công, chi phí ván khuôn, dàn giáo sẽ tăng vì phải quay vòng nhanh.
Hoặc theo định mức ban đầu, hồ sơ thiết kế sân bay Long Thành là nền sử dụng cát đen, nhưng khi thi công không có cát đen cung cấp, nhà thầu phải dùng cát nhân tạo. Tuy nhiên, hiện nay mặc dù công trình xây dựng đã lợp mái, dựng xong kết cấu thép, nhưng vẫn không có định mức để nhà thầu lập hồ sơ thanh toán.
Ngoài ra, theo quy định hiện hành, thời gian chờ đợi quyết toán nhiều khi lên đến hàng chục năm như gói thầu đường 5 của Tổng công ty 319 (bị giữ 27 tỷ đồng trong khi giá trị gói thầu có 300 tỷ đồng).
Trong khi vốn đọng khá lớn thì doanh nghiệp xây dựng cũng đang gặp khó bởi chỉ được tạm ứng 10% và điều kiện vốn pháp định của doanh nghiệp xây dựng còn hạn chế. Nhưng, do mức lãi suất vay vốn trung hạn còn cao, các thủ tục ký quỹ, đảm bảo vốn vay còn phức tạp nên nhiều nhà thầu gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng, các chi phí lãi vay và các loại phí còn lớn là gánh nặng cho các nhà thầu.
Do đó, thứ nhất, đề nghị cơ quan quản lý nghiên cứu đổi mới toàn diện hệ thống quản lý chi phí, không ban hành định mức dự toán chi tiết như hiện nay, mà xây dựng hệ thống định mức – đơn giá tổng hợp để xác định giá gói thầu, tổng dự toán, tổng mức đầu tư. Mặt khác, nhà nước cần từng bước xoá bỏ cơ chế 2 giá trong ngành xây dựng (giá công trình vốn nhà nước và công trình vốn ngoài nhà nước).
Thứ hai, đề nghị các cơ quan soạn thảo cân nhắc đảm bảo sự bình đằng giữa bên giao thầu và bên nhận thầu đặc biệt về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hợp đồng.
Cần quan tâm, “cứu” các nhà thầu thoát khỏi cảnh nợ đọng xây dựng do các chủ đầu tư vốn ngoài ngân sách chây ỳ trong thanh toán bằng biện pháp: phần 20% cuối cùng của hợp đồng các chủ đầu tư phải có bảo lãnh hoặc chí ít cũng phải có xác nhận khối lượng hoàn thành của chủ đầu tư mới được nghiệm thu tiếp nhận công trình đưa vào sử dụng.
Về cơ chế tạm ứng, đối với các gói thầu phải nhập khẩu các vật tư từ bên ngoài, cần tăng mức tạm ứng lên 15 - 20% tuỳ điều kiện.
Chủ đầu tư, bên giao thầu không giữ lại phần giá trị thanh toán các gói thầu để chờ quyết toán cả dự án hoàn thành (khoảng 3%). Ngoài ra, việc giữ lại nghĩa vụ bảo lãnh chỉ thực hiện ở lần thanh toán cuối cùng.
Hồ sơ tư vấn cần phải đi trước một bước, cả khâu khảo sát và lựa chọn tư vấn có chất lượng để hồ sơ ít sai sót nhất tránh được các phát sinh và chờ đợi khi thi công.
Thứ ba, đề nghị Chính phủ cần bổ sung quy định về thủ tục ký quỹ, tài sản đảm bảo trong các giao dịch của nhà thầu với ngân hàng bằng hợp đồng xây dựng đã ký với các chủ đầu tư, giá trị khối lượng xây dựng hoàn thành được nghiệm thu hoặc giá trị mà chủ đầu tư chưa thanh toán cho nhà thầu làm tài sản thế chấp vay vốn.
Các nhà thầu mong muốn được áp dụng lãi suất vay ngắn 4%/năm đối với các dự án trọng điểm, bên cạnh đó đề nghị ngân hàng rà soát lại một số quy định về hạn mức và mức phí của các loại bảo lãnh trong quá trình thực hiện hợp đồng của các nhà thầu xây dựng.