Cần xây dựng hành lang pháp lý cho công nghệ chỉnh sửa gen – lĩnh vực được xem là động lực mới của nông nghiệp Việt Nam trong kỷ nguyên đổi mới sáng tạo.
Tại Nghị quyết 19-NQ/TW và mới đây là Nghị quyết 57-NQ/TW, Đảng và Nhà nước đã xác định công nghệ sinh học là một trong những hướng đột phá chiến lược. Đây là cơ sở để ngành nông nghiệp tiếp tục chuyển đổi mạnh mẽ, hướng tới nền nông nghiệp sinh học, tuần hoàn và bền vững. Nhờ ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống, canh tác và bảo quản, năng suất và sản lượng lương thực, thực phẩm của Việt Nam không ngừng tăng.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho rằng, công nghệ sinh học, đặc biệt là công nghệ gen, đang tạo ra “làn sóng đổi mới mạnh mẽ” trong sản xuất nông nghiệp, góp phần tăng năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu của cây trồng, vật nuôi.
Theo đó, chỉ trong 9 tháng đầu năm, Việt Nam đã đạt sản lượng hơn 34,8 triệu tấn lúa, sản lượng cao không chỉ góp phần đảm bảo an ninh lương thực trong nước mà còn góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc tế. Đến nay, nước ta đã xuất khẩu hơn 7 triệu tấn gạo, góp phần khẳng định vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng lương thực toàn cầu.
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh: Dân số thế giới hiện đã vượt 8 tỷ người, nhu cầu về lương thực, thực phẩm an toàn và bền vững ngày càng tăng. Việt Nam không chỉ đảm bảo cho 104 triệu dân trong nước mà còn góp phần quan trọng vào an ninh lương thực toàn cầu.
"Việc nhiều quốc gia như Philippines, Singapore, Brazil duy trì nhập khẩu gạo, nông sản từ Việt Nam là minh chứng rõ ràng cho uy tín và chất lượng sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế", ông Phùng Đức Tiến nói.
Đề cập đến định hướng sắp tới, Thứ trưởng khẳng định Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn giống, chăn nuôi, trồng trọt và chế biến nông sản.
Việc Chính phủ ban hành Quyết định về phát triển công nghiệp sinh học là bước đi chiến lược, mở ra không gian phát triển mới cho khoa học Việt Nam.
Cùng với đó, cơ chế chính sách đang được hoàn thiện nhằm tạo môi trường thuận lợi hơn cho các nhà khoa học và doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này.
“Đã đến lúc chúng ta phải dám bước vào những lĩnh vực khó, đòi hỏi tri thức cao như công nghệ gen, vắc xin, và công nghiệp sinh học. Thành công sẽ không đến ngay, nhưng đây chính là con đường để Việt Nam tiến lên, làm chủ công nghệ, làm chủ tương lai nông nghiệp”, ông Tiến nói.
Theo Viện Di truyền Nông nghiệp, công nghệ chỉnh sửa gen cho phép tác động chính xác vào từng vị trí trong bộ gen cây trồng, giúp tạo ra những giống cây có khả năng chịu mặn, kháng bệnh, tăng giá trị dinh dưỡng hoặc kéo dài thời gian bảo quản, mà không cần đưa gen ngoại lai như công nghệ chuyển gen (GMO). Nhờ đó, các sản phẩm chỉnh sửa gen gần như tương đồng với giống lai tự nhiên, đồng thời rút ngắn thời gian chọn tạo chỉ còn 2–5 năm, thay vì 10–15 năm như trước.
PGS TS Nguyễn Phương Thảo, Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia TP HCM cho biết, Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm dẫn dắt về đổi mới công nghệ sinh học, đặc biệt là đối với cây trồng nhiệt đới, nếu có những chính sách cởi mở và hỗ trợ phù hợp.
Được biết, hiện nhiều viện, trường trong nước như Viện Di truyền Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội hay Trung tâm Công nghệ sinh học TP HCM đã làm chủ công nghệ này, cho ra đời nhiều kết quả nổi bật: lúa chịu mặn, đậu tương giảm đường khó tiêu, cà chua giàu carotenoid, ngô và đu đủ tăng năng suất, chất lượng. Tuy nhiên, do Luật Đa dạng sinh học năm 2008 mới chỉ định nghĩa "sinh vật biến đổi gen", nên các sản phẩm chỉnh sửa gen dù không chứa DNA ngoại lai vẫn bị xếp chung với GMO, gây khó khăn cho thương mại hóa và hội nhập quốc tế.
Các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần tách biệt khái niệm "chỉnh sửa gen" khỏi "biến đổi gen", đồng thời áp dụng cơ chế quản lý dựa trên bản chất sản phẩm chứ không phải công nghệ tạo ra nó. Đây là bước đi cần thiết để xây dựng khung pháp lý linh hoạt, minh bạch, giúp Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực về phát triển và thương mại hóa cây trồng chỉnh sửa gen, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, giảm phát thải và thích ứng với biến đổi khí hậu.
“Việt Nam cần sớm hoàn thiện khung pháp lý và chính sách liên quan đến công nghệ chỉnh sửa gen, bao gồm các tiêu chuẩn an toàn, quy trình xác nhận, cơ chế hỗ trợ tài chính. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các sản phẩm được đưa vào thương mại hóa”, PGS TS Nguyễn Phương Thảo lưu ý.
Đồng quan điểm, TS Nguyễn Duy Phương, Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử (Viện Di truyền Nông nghiệp) nhấn mạnh, Đảng và Chính phủ đã xác định chỉnh sửa gen là công nghệ chiến lược. Điều cần thiết hiện nay là sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho nhà khoa học và doanh nghiệp thương mại hóa kết quả nghiên cứu", ông nói, đồng thời kiến nghị điều chỉnh khái niệm "sinh vật biến đổi gen" trong Luật Đa dạng sinh học để phản ánh đúng bản chất khoa học.
Theo ông, Việt Nam có đầy đủ điều kiện để không bị tụt lại phía sau, nếu biết tận dụng thời cơ, đồng bộ giữa nhận thức xã hội, chính sách và năng lực khoa học. Khi đó, công nghệ chỉnh sửa gen không chỉ là "mũi nhọn" của nông nghiệp hiện đại mà còn là biểu tượng cho sự hài hòa giữa phát triển công nghệ và bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học – nền tảng cho một nền nông nghiệp bền vững và tự cường.
TS Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết thêm, Việt Nam đang xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Đa dạng sinh học năm 2008 để cập nhật khái niệm và quy định liên quan đến công nghệ chỉnh sửa gen, đồng thời xây dựng cơ chế quản lý và thương mại phù hợp với xu thế toàn cầu.
"Chúng tôi sẽ hiện đại hóa hệ thống phòng thí nghiệm, phát triển đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và bảo hộ sở hữu trí tuệ, qua đó đưa công nghệ sinh học trở thành trụ cột của nông nghiệp hiện đại," ông nhấn mạnh.