Sự phát triển của công nghệ mới đang làm xa hơn khoảng cách giữa thực tế sản xuất của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ với chuẩn mực quốc tế.
Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước đang đứng trước cơ hội phát triển lớn khi xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng ngày càng diễn ra mạnh mẽ để thích ứng với những bất định của kinh tế toàn cầu. Việt Nam đang được định vị là một trung tâm sản xuất trong ASEAN với sự có mặt của ngày càng nhiều các doanh nghiệp, tập đoàn lớn toàn cầu.
Hầu hết các doanh nghiệp lớn đó đều đã thiết lập và vận hành chuỗi cung ứng khá hoàn thiện. Tuy nhiên, những thay đổi của kinh tế toàn cầu đã thúc đẩy nhu cầu đa dạng hóa nguồn cung, tìm kiếm sự hợp tác của nhà cung ứng nội địa để vừa chủ động sản xuất vừa tối ưu hoá chi phí.
Số lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung ứng trong chuỗi đã tăng đáng kể. Song, so với nhu cầu và yêu cầu phát triển, kết quả đạt được chưa tương xứng. Nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Bùi Quang Tuấn đánh giá, tỷ lệ doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi giá trị toàn cầu còn thấp.
Nguyên nhân chính là do năng lực nội tại của không ít doanh nghiệp còn hạn chế, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển xứng tầm khiến tỉ lệ nội địa hóa thấp; thiếu liên kết giữa khối FDI và doanh nghiệp trong nước…
Đề cập đến con số cụ thể về tỉ lệ nội địa hóa, theo Liên minh Hỗ trợ công nghiệp Việt Nam (VISA) là khoảng 36%, trong đó, các ngành điện tử, linh kiện khoảng 30%. Theo VASI, rào cản lớn khiến doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ khó tham gia chuỗi cung ứng của tập đoàn toàn cầu ngoài yếu tố giá thành, tiến độ thực hiện... còn liên quan đến chất lượng kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc tế, dữ liệu minh bạch.
Trong khi đó, khoa học công nghệ đang phát triển rất nhanh và mạnh, tạo nên những bước nhảy vọt trong sản xuất. Phần nhiều doanh nghiệp công nghiệp trong nước quy mô nhỏ, nguồn lực hạn chế, khả năng tiếp cận vì thế hạn chế khiến cho doanh nghiệp khó đáp đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng quốc tế.
Không chỉ vậy, theo ông Đàm Đắc Quang - CEO của Lumi Smart Factory cho biết, chi phí kiểm định chất lượng với các sản phẩm công nghiệp khá cao, thời gian đánh giá và kiểm định ngắn khiến doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp SME khó tiếp cận.
Cùng với các Nghị quyết quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân dựa trên ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, Chính phủ đã ban hành Nghị định 205 được cộng đồng doanh nghiệp đón nhận. Quy định được đề cập trong Nghị định mới đã mở rộng doanh nghiệp tiếp cận, thụ hưởng nhiều chính sách ưu đãi vượt trội trong lĩnh vực đất đai, công nghệ, đầu tư cho R&D, đào tạo nguồn nhân lực, tài chính… trên cơ sở các thủ tục hành chính được đơn giản, theo hướng dễ tiếp cận.
Để nâng cao năng lực sản xuất, tăng cơ hội tham gia chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước, đại diện VASI cho rằng, các cơ chế ưu đãi cần thực thi nghiêm túc, hiệu quả; đồng thời các cơ quan quản lý cần nghiên cứu xây dựng các sàn giao dịch công nghiệp hỗ trợ; xây dựng cơ sở dữ liệu hồ sơ năng lực doanh nghiệp.
Đặc biệt cần thúc đẩy và nhân rộng mô hình “tam giác liên kết” giữa Nhà nước, doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nội địa. Mô hình này đã được một số tập đoàn FDI lớn triển khai thành công như Samsung, Toyota Việt Nam… Trong đó, các doanh nghiệp đầu chuỗi tham gia hỗ trợ đào tạo, chia sẻ tiêu chuẩn kỹ thuật để các doanh nghiệp trong nước tiếp cận và dần dần trưởng thành.
Ngược lại, doanh nghiệp trong nước khi tham gia mô hình cần đầu tư nâng cao công nghệ, quản trị chất lượng theo hướng tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, tăng cường liên kết cụm ngành. Chỉ trên cơ sở hợp tác chặt chẽ như vậy mới có thể rút ngắn khoảng cách cung - cầu, nâng cao năng lực nội tại và tăng cơ hội tham gia chuỗi cho các doanh nghiệp trong nước.