Đại dịch COVID -19 đang ảnh hưởng đến mọi quốc gia, bất kể mức độ phát triển, khiến chuỗi cung ứng toàn cầu bị xáo trộn. Vậy Việt Nam phản ứng thế nào với ảnh hưởng này?
Theo khảo sát của C̀ông ty CEL (Công ty tư vấn chuyên về quản trị cung ứng tại các thị trường kinh tế phát triển) thực hiện vào cuối tháng 3 thì, đại dịch đang ảnh hưởng đến mọi quốc gia, bất kể mức độ phát triển. Các chuyến bay dần bị buộc phải ngừng vận hành, các dòng hàng hóa xuất nhập khẩu bị chậm lại do thiếu hụt nguồn nhân lực để vận hành các hoạt động trên sàn: nhân viên lấy hàng trong kho, tài xế xe tải, người vận hành nhà máy...
“Cầu” thị trường giảm
Thực tế, tác động đại dịch COVID -19 khiến chuỗi cung ứng toàn cầu bị xáo trộn. Chuỗi cung ứng Việt Nam phản ứng thế nào với ảnh hưởng này là vấn đề được đặt ra trong khảo sát của CEL mới được công bố.
Tại Việt Nam, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, 83% số công ty trong chuỗi giá trị hữu hình (nhà bán lẻ, vận chuyển, thương nhân, nhà sản xuất) đã gặp phải vấn đề về nguồn cung cấp vật liệu trong hai tháng vừa qua. 47% trong số họ gặp khó khăn cụ thể với nguồn cung từ phía Trung Quốc và phần lớn thiếu hụt nguyên liệu thô.
Trong khi đó, theo CEL, nhu cầu tại Việt Nam thời gian qua tăng cao với một số mặt hàng thiết yếu: thực phẩm đóng gói tăng 26%, ngành sữa tăng 10%, sản phẩm chăm sóc cá nhân tăng 29%... Đặc biệt, giỏ mua hàng của người tiêu dùng đã lớn hơn nhằm tích trữ và giảm tần suất đi đến siêu thị, các cửa hàng.
Song đến thời điểm hiện tại, lượng đơn đặt hàng đang ở mức thấp nhất, đặc biệt mức bán hàng trong lĩnh vực đồ uống nhanh, thời trang, điện tử, xe cộ, nông nghiệp, đồ nội thất, giày dép và nhiều loại khác đã bắt đầu biến mất trong phạm vi địa phương và cả toàn cầu.
“Điều thiếu vắng nhất giờ đây chính là người tiêu dùng, nhu cầu thị trên thị trường”, CEL nhấn mạnh. Chính điều này khiến hàng ngàn doanh nghiệp có lợi nhuận âm và lượng dự trữ tiền mặt ít. Các công ty phụ thuộc xuất khẩu các đơn đặt hàng bị hủy mỗi ngày, đặc biệt là các đơn hàng từ châu Âu và Hoa Kỳ.
Hậu quả là khối lượng các công ty giao nhận vận tải hàng hóa tại Việt Nam giảm từ 25% đến 70%. Một số doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tuyên bố phá sản, việc thất nghiệp đang đe dọa nhiều ngành công nghiệp. Ngoài ra, nhiều áp lực được hình thành đối với giá thuê mặt bằng, các lĩnh vực bất động sản, xây dựng đang chịu sự căng thẳng.
Có thể bạn quan tâm
19:57, 21/08/2018
02:22, 04/12/2017
16:17, 11/01/2016
00:00, 21/12/2014
Hàng online gia tăng
Khảo sát của CEL đã phát hiện rằng, các công ty hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ, phân phối và dịch vụ hậu cần (không bao gồm thương mại điện tử và giao hàng chặng cuối) có báo cáo doanh thu thiếu hụt so với mục tiêu 25% trong quý 1 năm 2020 và dự kiến sẽ không phục hồi khoản lỗ này trong năm nay.
Nhưng khi cách ly xã hội trở thành một thực tế cấp bách hơn, người tiêu dùng thành thị tìm kiếm các lựa chọn mua sắm thuận tiện và an toàn cho nhu cầu gia đình hàng ngày. Thương mại điện tử và dịch vụ giao hàng tận nhà đã trở thành trung tâm của sự chuyển biến này.
Số liệu vẫn chưa được công bố chính thức tại Việt Nam nhưng Lazada báo cáo số lượng đơn đặt hàng tại Singapore tăng 300% và dịch vụ giao hàng của Grab tăng 200% tại Bangkok. “Chúng ta có thể giả định sự tăng trưởng tương tự đang được nhìn thấy ở các thành phố chính ở Việt Nam”, ông Julien Brun, Quản lý đối tác của CEL chia sẻ.
Về tổng quan, một lượng lớn hàng hóa đã chuyển từ các kênh phân phối ngoại tuyến sang các kênh trực tuyến và các công ty phân phối chặng cuối chưa thể ứng phó với làn sóng gia tăng của các đơn giao hàng. Một trong những thách thức chính mà sự thay đổi này tạo ra cho phân phối nội địa là khả năng vận chuyển hàng hóa đường dài. CEL lấy ví dụ giữa miền Bắc và Nam ở Việt Nam vì thời điểm này vận tải đường hàng không và đường sắt còn hạn chế. Xe tải chạy đường dài trở nên khan hiếm và sự thiếu hụt khả năng vận chuyển gây ra chậm trễ và gián đoạn thêm.
Doanh nghiệp cần đổi mới
Theo quan điểm của CEL, bên cạnh các quốc gia có kết quả hứa hẹn trong cuộc chiến chống lại sự lây nhiễm rộng lớn như Việt Nam, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và Trung Quốc, có vẻ như châu Âu vẫn sẽ đối mặt với việc phong tỏa ít nhất cho đến tháng 6 - 7 năm 2020. Trong viễn cảnh tốt nhất, châu Âu sẽ phục hồi chậm trong quý 3 và quý 4 năm 2020.
Mặt khác, Hoa Kỳ đã do dự trong việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn rõ ràng và đại dịch đang lan rộng nhanh chóng. Giờ đây khá rõ ràng, Hoa Kỳ sẽ chịu áp lực lớn trong ít nhất trong 2 quý tới. Các thị trường chứng khoán bất ổn định, mặc dù có một lượng lớn tiền mặt từ Cục Dự trữ Liên bang (FED) để hỗ trợ nền kinh tế, các chuyên gia và nhà kinh tế vẫn lo ngại nghiêm trọng về một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Bất kể các quốc gia khác có xu hướng phục hồi nhanh như thế nào, nếu Mỹ bị ảnh hưởng, nền kinh tế thế giới sẽ đối mặt với những thách thức nghiêm trọng trong những tháng tới. Người tiêu dùng Mỹ hiện đang giảm chi tiêu cho giày dép, điện thoại, thiết bị, quần áo, xe hơi, dụng cụ... Hầu hết chúng được sản xuất ở châu Á và một phần lớn ở Việt Nam.
Thực tế hiện nay, các đơn đặt hàng đang bị hủy từ cửa hàng tạp hóa ở Tây Ban Nha cho thương nhân rượu vang đỏ ở Mỹ, từ thương hiệu thời trang ở Ý đến nhà sản xuất hàng may mặc tại Việt Nam, từ chuỗi bán lẻ ở Mỹ đến nhà máy giày ở Ấn Độ, từ thương nhân cà phê ở Anh đến hợp tác xã nông nghiệp ở Ethiopia. Chúng ta hiện đang rơi vào một cuộc khủng hoảng nhu cầu tiêu dùng.
Theo kết quả khảo sát của CEL, 80% doanh nghiệp đã hoặc đang xem xét triển khai các chương trình khuyến mãi đặc biệt để đảm bảo doanh số tối thiểu và 60% trong số họ đã thực hiện những thay đổi trong dòng sản phẩm của mình.
“Đây là giai đoạn mà các công ty cần phải đổi mới và tự sắp xếp lại với lượng nhu cầu mới, khuôn mẫu và xu hướng mới. Các doanh nghiệp không thể thích nghi đủ nhanh sẽ bị loại khỏi cuộc chơi”, ông Julien Brun nhấn mạnh.
Ngay cả khi lúc này còn sớm cho việc dự đoán thế giới sẽ thế nào sau đại dịch COVID -19, nền kinh tế toàn cầu và chuỗi cung ứng toàn cầu chắc chắn sẽ có sự chuyển biến đáng kể. CEL chỉ rõ, các thị trường trưởng thành sẽ phát triển tính tự chủ với các chuỗi cung ứng được địa phương hóa và tái thiết lập, từ đó làm giảm sự phụ thuộc vào thị trường xuất khẩu.
Người tiêu dùng sẽ ưu tiên cao hơn cho các sản phẩm địa phương thay vì hàng nhập khẩu, cũng vì lý do môi trường. Kiểm soát chất lượng chặt chẽ hơn sẽ được yêu cầu sớm hơn trong các chuỗi….