Đề xuất không thu giữ tài sản bảo đảm nếu đó là “nhà ở duy nhất” hoặc “công cụ lao động chủ yếu” của bên bảo đảm là một trong những nội dung đáng chú ý với nhiều ý kiến tranh luận.
Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến về Dự thảo Nghị định quy định điều kiện tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ (Dự thảo). Một trong những nội dung trong Dự thảo đang gây tranh cãi là tài sản bảo đảm không phải là nhà ở duy nhất của bên bảo đảm. Tại Dự thảo, Ngân hàng Nhà nước đề xuất định nghĩa khái niệm “nhà ở duy nhất” là công trình xây dựng duy nhất thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, nơi bên bảo đảm ở và sinh sống ổn định, lâu dài hoặc thường xuyên sinh sống. Công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất là phương tiện lao động mang lại thu nhập chính, được xác định dựa trên mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định.
Theo Ngân hàng Nhà nước, việc không thu giữ tài sản bảo đảm là công cụ lao động chủ yếu hoặc nhà ở duy nhất của người dân là biện pháp bảo vệ, giúp bên bảo đảm, bên vay duy trì điều kiện sinh sống tối thiểu, có khả năng lao động và nuôi sống bản thân, gia đình. Quy định này được xây dựng trên cơ sở tham khảo pháp luật và kinh nghiệm quốc tế tại Đức, Canada, Pháp và Liên bang Nga, nơi cũng có các giới hạn nhằm bảo vệ người dân khi tài sản bị kê biên hoặc thu giữ.
Theo các chuyên gia pháp lý, điểm mới trong Dự thảo tiệm cận thông lệ quốc tế, đồng thời thể hiện rõ cách tiếp cận nhân văn, đảm bảo nguyên tắc bảo vệ tối thiểu quyền con người. Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật SBLAW nhận định, đây là bước tiến quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi người dân. Theo ông, quy định này giúp đảm bảo quyền về chỗ ở, ngăn chặn nguy cơ người vay rơi vào cảnh bần cùng hóa khi mất khả năng trả nợ.
Tuy nhiên, Luật sư Nguyễn Thanh Hà cũng cảnh báo, chính sách này sẽ tạo ra không ít thách thức cho hệ thống ngân hàng. Khi phạm vi tài sản bảo đảm được phép xử lý bị thu hẹp, các tổ chức tín dụng sẽ buộc phải thắt chặt điều kiện cho vay và nâng cao quy trình thẩm định để kiểm soát rủi ro. Điều đó có thể khiến khả năng tiếp cận vốn vay của người dân trở nên khó khăn hơn.
“Đây là vấn đề có hai mặt mà nhà làm luật cần cân nhắc kỹ lưỡng trong quá trình hoàn thiện Nghị định”, ông Hà nhấn mạnh.
Ở góc độ ngành ngân hàng, TS Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, thực tế có những khách hàng chỉ sở hữu một căn nhà duy nhất nhưng giá trị lên tới hàng trăm tỷ đồng. Nếu căn nhà này được dùng để thế chấp vay vốn, song người vay mất khả năng trả nợ và từ chối bàn giao, ngân hàng sẽ rơi vào tình thế rất khó xử.
Trong trường hợp này, theo ông Hùng, ngân hàng có thể tính đến phương án mua lại một căn nhà giá trị thấp hơn để bảo đảm quyền cư trú cho khách hàng, đồng thời xử lý phần còn lại của tài sản thế chấp nhằm thu hồi nợ xấu.
Ông cũng lưu ý tới các loại tài sản đặc thù như tàu thuyền, khi bị thu giữ, chúng thường bị bỏ không ngoài biển, không được khai thác nên nhanh chóng xuống cấp, mất giá trị. Điều này gây thiệt hại cho cả bên vay lẫn bên cho vay.
TS Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh, nguyên tắc chung là người vay không trả nợ thì chủ nợ có quyền thu giữ và phát mại tài sản. Tuy nhiên, chính các tổ chức tín dụng hiện đang rất băn khoăn nếu phạm vi bảo vệ quá rộng, sẽ dẫn tới nghịch lý là những khách hàng có tài sản giá trị lớn lại được “bảo vệ”, trong khi những người vay nhỏ, khó khăn lại chịu thiệt. Hệ quả là cơ hội tiếp cận vốn của người dân sẽ bị thu hẹp.
Để dung hòa lợi ích, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đề xuất quy định cần bảo đảm sự cân bằng giữa quyền có chỗ ở tối thiểu và nghĩa vụ trả nợ. Theo đó, có thể xem xét bố trí nơi ở thiết yếu cho người vay, sau đó phần tài sản còn lại phải được xử lý để thu hồi nợ.
“Quan trọng là phải xác định rõ ràng ranh giới tài sản nào được bảo vệ, tài sản nào phải xử lý, nhằm bảo đảm công bằng cho cả bên vay và bên cho vay”, ông nhấn mạnh.