Việc tận dụng hiệu quả các FTA đặc biệt tại các thị trường châu Âu, Nhật Bản và Halal sẽ giúp Việt Nam nâng cao vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Phát biểu tại “Diễn đàn kinh doanh 2025: Giải pháp đột phá hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới” do VCCI chỉ đạo, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức chiều 14/8/2025, TS Nguyễn Văn Hội - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương đã nhấn mạnh vai trò then chốt của các hiệp định thương mại tự do (FTA) trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt với những mặt hàng chủ lực của Việt Nam.
Kể từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã ký kết 17 FTA có hiệu lực với các đối tác quan trọng như ASEAN, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Vương quốc Anh, Australia… Mới đây nhất, năm 2024, Việt Nam và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) đã ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện, hiện đang trong quá trình hoàn thiện thủ tục để chính thức có hiệu lực. Các cam kết trong các FTA ngày càng mở rộng, không chỉ giới hạn ở việc cắt giảm thuế nhập khẩu hay áp dụng hạn ngạch thuế quan, mà còn bao gồm nhiều lĩnh vực như dệt may, quy tắc xuất xứ, lao động, dịch vụ và đầu tư, mua sắm Chính phủ, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, sở hữu trí tuệ, thương mại điện tử, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển bền vững và hội tụ phương pháp hoạch định chính sách.
So sánh giữa một số hiệp định tiêu biểu, có thể thấy mỗi FTA mang lại những tác động khác nhau đối với kinh tế Việt Nam. Hiệp định RCEP tập trung vào thuận lợi hóa thương mại với lộ trình tự do hóa thuế quan kéo dài 15-20 năm, dự báo đóng góp từ 0,5% đến 1,0% vào tăng trưởng GDP. CPTPP mở cửa mạnh mẽ hơn, giảm 97%-100% số dòng thuế trong tối đa 11 năm, giúp GDP dự kiến tăng 1,0%-2,0%. EVFTA có mức cam kết sâu rộng, giảm gần như toàn bộ thuế quan trong thời gian từ 0 đến 7 năm, tác động tích cực hơn nữa khi dự kiến nâng GDP thêm 2,0%-3,0%.
TS Nguyễn Văn Hội cho rằng các FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA không chỉ thúc đẩy tự do thương mại hàng hóa và dịch vụ, mà còn bao hàm những lĩnh vực “phi truyền thống” như lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, minh bạch hóa và cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư, đặt ra tiêu chuẩn cao hơn và yêu cầu thực thi chặt chẽ hơn.
TS Nguyễn Văn Hội nhận định: "Các FTA là “đường cao tốc” đưa hàng hóa Việt Nam đến gần hơn với người tiêu dùng toàn cầu. Chúng không chỉ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, mở rộng quy mô và đa dạng hóa thị trường, mà còn giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất nhờ ưu đãi thuế quan". Đồng thời, TS Hội cho rằng, các FTA cũng tạo áp lực để hệ thống chính sách, pháp luật trong nước trở nên minh bạch, thuận lợi và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, đồng thời tạo điều kiện để nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường Việt Nam nhanh chóng hơn.
Năm 2024, Việt Nam đạt GDP 476,3 tỷ USD, đứng thứ 33 thế giới; GDP bình quân đầu người 4.649 USD, xếp thứ 120. FDI đạt 25,35 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia thu hút vốn đầu tư lớn nhất. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 769 tỷ USD, thuộc top 20 toàn cầu; trong đó xuất khẩu đạt 405,53 tỷ USD, đứng hạng 20, nhập khẩu 380,76 tỷ USD, hạng 23. Xuất khẩu nông sản đạt 32,8 tỷ USD, đứng thứ 15 thế giới; xuất khẩu gạo 9,18 triệu tấn, trị giá 5,75 tỷ USD, giữ vị trí thứ 3 toàn cầu. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 6.319 nghìn tỷ USD, chiếm 0,68% toàn cầu; giá trị sản xuất công nghiệp đạt 117,5 tỷ USD, xếp thứ 23 thế giới.
Dù tiềm năng và cơ hội rất lớn, TS Hội cũng chỉ ra nhiều thách thức đang hiện hữu. Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện thể chế để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm. Tình trạng phụ thuộc nhiều vào một số thị trường xuất khẩu, phụ thuộc vào khu vực FDI, tỷ trọng thu ngân sách từ thuế xuất nhập khẩu còn cao, thị trường dịch vụ tài chính trong nước chưa phát triển, cùng với trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước cần được nâng lên là những yếu tố cần được giải quyết.
Về giải pháp, đối với Nhà nước, ông đề xuất tập trung phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nông nghiệp cần được phát triển với các sản phẩm chủ lực, áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc cho nông, thủy sản xuất khẩu. Đồng thời, cần mở rộng thị trường xuất khẩu theo hướng bền vững, tăng cường dự báo, theo dõi và cập nhật thị trường; hoàn thiện thể chế, tăng cường quản lý để tạo thuận lợi thương mại, chống gian lận, huy động hiệu quả nguồn lực, nâng cấp hạ tầng logistics và giảm chi phí vận chuyển.
Với cộng đồng doanh nghiệp, TS Hội cho rằng cần nâng cao vai trò của các hiệp hội ngành hàng trong giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, phát triển doanh nghiệp tư nhân theo Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị, khuyến khích hình thành các doanh nghiệp hạt nhân dẫn dắt chuỗi giá trị xuất khẩu quy mô lớn. Các doanh nghiệp cũng cần được hỗ trợ để vượt qua rào cản thương mại tại các thị trường nước ngoài, đồng thời tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước nhằm lan tỏa lợi ích và thúc đẩy hợp tác.
TS Nguyễn Văn Hội khẳng định, việc tận dụng hiệu quả các FTA đặc biệt tại các thị trường châu Âu, Nhật Bản và Halal sẽ giúp Việt Nam nâng cao vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, đưa hàng hóa Việt Nam đến với nhiều thị trường giá trị cao hơn và tạo đòn bẩy cho tăng trưởng bền vững trong những năm tới.