Để thị trường tín chỉ carbon phát triển thực chất, Việt Nam cần một lộ trình cải cách thể chế mạnh mẽ đi kèm với sự vào cuộc đồng bộ của các bên liên quan.
Trước mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 như cam kết tại Hội nghị COP26 năm 2021, Việt Nam đang tích cực tìm kiếm các giải pháp vừa hiệu quả về môi trường, vừa khả thi về chi phí. Trong đó, thị trường tín chỉ carbon nổi lên như một công cụ chính sách then chốt, giúp thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính theo cơ chế thị trường, đồng thời mở ra dư địa lớn để huy động nguồn lực tài chính xanh trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy thị trường tín chỉ carbon của Việt Nam đang đối mặt với những thách thức lớn bao gồm hệ thống pháp lý chưa hoàn thiện; hạ tầng kỹ thuật chưa đồng bộ; năng lực doanh nghiệp còn hạn chế; thiếu nhân lực chất lượng cao; nhận thức doanh nghiệp về lợi ích thị trường carbon còn mờ nhạt và sự phối hợp liên ngành còn thiếu hiệu quả. Nhiều ý kiến cho rằng, để thị trường này thực sự vận hành hiệu quả và hội nhập quốc tế, Việt Nam cần vượt qua hàng loạt thách thức về pháp lý, hạ tầng kỹ thuật và năng lực triển khai. Theo đó, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương trong quản lý và phân bổ hạn ngạch phát thải. Đồng thời, phải hoàn thiện khung pháp lý theo tiêu chuẩn quốc tế, thiết lập cơ chế tài chính hỗ trợ…
Nêu quan điểm về vấn đề này, TS Hồ Công Hòa, Học viện Chính sách và Phát triển cho rằng, Việt Nam đang đứng trước thời điểm chiến lược để định hình thị trường carbon phù hợp với định hướng phát triển kinh tế carbon thấp và cam kết Net Zero đến năm 2050. Dù đã có những bước khởi đầu trong việc xây dựng khung pháp lý, song để thị trường tín chỉ carbon vận hành hiệu quả, minh bạch và đủ điều kiện hội nhập quốc tế, vẫn cần đến những hành động cụ thể và mạnh mẽ hơn nữa.
Theo TS Hồ Công Hòa, kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước cho thấy, yếu tố quyết định thành công nằm ở một khung pháp lý đầy đủ và linh hoạt, cơ chế giám sát và xử phạt nghiêm minh, cùng với sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân và các tổ chức tài chính. Đặc biệt, các chính sách về phân bổ hạn ngạch công khai, chính sách thuế rõ ràng và chiến lược sử dụng nguồn thu hợp lý sẽ tạo động lực quan trọng cho sự phát triển lâu dài của thị trường.
Vì vậy, Việt Nam cần rà soát, sửa đổi và bổ sung các nội dung còn thiếu hoặc chưa rõ trong Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 06/2022/NĐ-CP và Nghị định về Sàn giao dịch carbon, đặc biệt trong các lĩnh vực như định vị pháp lý hàng hóa carbon, đấu giá hạn ngạch, cơ chế bù trừ và tín chỉ quốc tế, xử phạt và công khai vi phạm, sử dụng nguồn thu, và liên kết quốc tế theo Điều 6 của Thỏa thuận Paris. Đồng thời, việc xây dựng một cơ chế điều phối liên ngành mạnh mẽ và đầu tư cho hệ thống dữ liệu, giám sát (MRV) là điều kiện tiên quyết để thị trường hoạt động minh bạch, có trách nhiệm và thu hút được đầu tư xanh trong và ngoài nước.
Đồng tình với quan điểm nêu trên, TS Nguyễn Mạnh Hải, Chuyên gia kinh tế nhấn mạnh, một trong những định hướng trọng yếu để phát triển thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam là từng bước tháo gỡ các rào cản còn tồn tại trong nền kinh tế, từ đó xây dựng được một thị trường thực chất, hiệu quả và bền vững.
Theo chuyên gia này, việc hoàn thiện hành lang pháp lý là nhiệm vụ cấp thiết, bao gồm xây dựng các quy định pháp luật về thị trường carbon (quy chế đấu giá, giao dịch, chứng nhận tín chỉ carbon...) bảo đảm tính minh bạch và hiệu quả của thị trường; ban hành các hướng dẫn kỹ thuật liên quan đến đo lường, báo cáo và thẩm định phát thải (MRV); thiết lập các quy định về kiểm tra, giám sát và chế tài khi có hành vi vi phạm.
Cùng với việc hoàn thiện thể chế, việc phát triển hệ thống giao dịch phát thải khí nhà kính (ETS) là bước đi song hành cần thiết. Trong đó, Việt Nam cần xác định các ngành/lĩnh vực đủ điều kiện tham gia thí điểm, từng bước thiết lập hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính nội địa và xây dựng sàn giao dịch tín chỉ carbon chuyên nghiệp, vận hành hiệu quả.
Ngoài ra, cần kết nối với thị trường quốc tế, tham gia vào các cơ chế thị trường carbon quốc tế như cơ chế tín chỉ quốc tế, thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương để mua bán tín chỉ carbon xuyên biên giới.
“Đặc biệt, để khuyến khích khu vực tư nhân tham gia tích cực, Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, hỗ trợ tài chính. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy cơ chế tín dụng carbon tự nguyện (VCM) đối với các doanh nghiệp tiên phong”, TS Nguyễn Mạnh Hải nhấn mạnh.