Khó khăn chồng chất khó khăn, nhiều doanh nghiệp ngành xi măng đang loay hoay, xoay xở để tồn tại, nhiều đơn vị tạm thời đóng cửa, cho công nhân nghỉ việc, một số nhà máy phải đóng cửa vĩnh viễn…
>>Ngành xi măng gặp khó khăn “kép” khi giá điện tăng
Khó khăn chồng chất
Theo đó, việc mất cân đối cung cầu ngành xi măng trên thực tế đã diễn ra nhiều năm, nhưng năm 2023 tình hình càng trầm trọng. Nói như lãnh đạo Tổng công ty Xi măng Việt Nam (VICEM), năm 2023 là năm tiêu thụ khó khăn nhất trong lịch sử hơn 120 năm của ngành xi măng Việt Nam. Vì sao tiêu thụ xi măng lại khó khăn như vậy?
Theo số liệu thống kê của Bộ Xây dựng cho thấy, qua 11 tháng năm 2023, sản lượng tiêu thụ xi măng trong toàn ngành đạt khoảng hơn 80 triệu tấn, giảm 12% so với cùng kỳ năm 2022; trong đó, sản lượng tiêu thụ xi măng ở thị trường nội địa là 52 triệu tấn, giảm 16% và sản lượng xuất khẩu đạt gần 29 triệu tấn, giảm 29% so với cùng kỳ năm 2022. Cũng theo Bộ Xây dựng, sản lượng tiêu thụ giảm mạnh dẫn đến nhiều nhà máy xi măng phải ngừng hoạt động một số dây chuyền lò nung, trong đó có những dây chuyền phải ngừng dài hạn.
Theo các chuyên gia, do thị trường bất động sản trầm lắng trong thời gian dài suốt từ năm 2022 do nhiều nguyên nhân khác nhau, khiến việc triển khai xây dựng các công trình, dự án giảm mạnh, từ đó kéo theo nhu cầu về xi măng phục vụ xây dựng không cao. Bên cạnh đó, các dự án đầu tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng nhìn chung tiến độ triển khai còn chậm so với kế hoạch cũng là nguyên nhân gây tắc nghẽn đầu ra của chuỗi sản xuất, cung ứng vật liệu xây dựng, trong đó có xi măng.
Theo PGS,TS. Lương Đức Long - Tổng Thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam, các doanh nghiệp đang gánh áp lực cực lớn, đó là cầu xi măng giảm, giá bán giảm nhưng giá điện, than và giá nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất xi măng tăng, hoặc đang ở mức cao, khiến hiệu quả sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng.
Trong khi đó, giá điện chiếm 35% chi phí sản xuất. Giá điện tăng, kéo theo giá thành sản xuất tăng. Nếu tính tác động tới giá thành các ngành sản xuất dùng nhiều điện như sản xuất thép, xi măng, giấy thì giá thành thép tăng khoảng 0,18%, giá thành xi măng tăng khoảng 0,45% và giá thành sản xuất giấy tăng khoảng 0,4%.
Riêng lĩnh vực xi măng, chi phí điện chiếm 14 - 15% trên giá vốn hàng bán, trừ những nhà máy lớn sử dụng lò quay xi măng thì chi phí điện chiếm khoảng 9 - 10% giá vốn hàng bán. Ước tính, chi phí điện tăng 3% làm giá vốn hàng bán tăng thêm, tổng lợi nhuận trước thuế của ngành xi măng giảm 13%, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Đặc biệt, theo PGS,TS. Lương Đức Long , từ ngày 01/01/2023, mức thuế suất xuất khẩu clinke tăng từ 5% lên 10% và clinke xuất khẩu được xếp vào là đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào… Những yếu tố trên cộng hưởng đã làm gia tăng áp lực rất lớn lên các doanh nghiệp ngành xi măng.
Khó khăn chồng chất khó khăn, nhiều doanh nghiệp loay hoay, xoay xở. Có nhà máy xi măng công suất nhỏ, phải đóng cửa vĩnh viễn; có doanh nghiệp chọn giải pháp tạm thời dừng lò, đóng cửa nhà máy, cho công nhân nghỉ việc; doanh nghiệp lớn thì “khỏe hơn”, lựa chọn giải pháp sản xuất cầm chừng, duy trì chạy 1 hoặc 2 lò.
>>Doanh nghiệp ngành xi măng chìm trong thua lỗ
Cần đồng bộ các giải pháp hỗ trợ
Đưa ra giải pháp để “gỡ khó” cho ngành xi măng, TS Nguyễn Quang Hiệp - Phó Vụ Trưởng Vụ Vật Liệu Xây dựng, Bộ Xây dựng cho rằng, cần có định hướng về mặt chính sách để giải quyết các vấn đề nội tại của ngành xi măng. Cụ thể, TS Hiệp cho rằng có 5 vấn đề phải triển khai ngay.
Thứ nhất, cần thúc đẩy hoạt động đầu tư xây dựng, đặc biệt xây dựng kết cấu hạ tầng. Theo đó, các bộ ngành, địa phương đẩy mạnh đầu tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thủy lợi, đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, nông thôn; Bộ GTVT chỉ đạo các chủ đầu tư tăng tỷ lệ sử dụng cầu cạn bê tông cốt thép đối với các dự án đường bộ cao tốc đang trong giai đoạn thiết kế, đặc biệt là ở những thiếu vật liệu đắp nền đường như vùng ĐBSCL; Tăng cường sử dụng công nghệ gia cố đất bằng xi măng trong xây dựng đường bộ ở; UBND các địa phương tăng cường sử dụng đường bê tông xi măng cho xây dựng đường nông thôn, miền núi và đường tại những vùng thường xuyên ngập lụt.
Thứ hai, thực hiện tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản, nhà ở. Các bộ ngành, địa phương đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/2023 của Chính phủ. NHNN phối hợp Bộ Xây dựng và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình tín dụng khoảng 120.000 tỷ đồng cho vay ưu đãi phát triển nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo xây dựng lại chung cư cũ.
Thứ ba, về chính sách thuế, đề nghị Chính phủ tạm hoãn việc tăng thuế xuất khẩu clanhke từ 5 lên 10% (theo Nghị định 101/2021/NĐ-CP) tạm giữ thuế suất thuế xuất khẩu Clanhke ở mức cũ 5% thêm 2 năm;
Cùng với đó, đề nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi chính sách thuế GTGT đối với sản phẩm xuất khẩu (clinker) quy định tại Nghị định số 100/2016/NĐ-CP và Bộ Tài chính sửa đổi các Thông tư liên quan theo hướng sản xuất clanhke không thuộc đối tượng hàng hóa không chịu thuế GTGT.
Chính phủ cũng nên xem xét, sửa đổi Nghị định số 12/2015/NĐ-CP và Bộ Tài chính sửa đổi Thông tư số 152/2015/TT-BTC theo hướng quy định lại cách tính thuế tài nguyên đối với sản phẩm chế biến từ khoáng sản trong đó có xi măng, clanhke xi măng để thuế tài nguyên không bị tính trùng lên thuế thu nhập doanh nghiệp như phản ánh của các doanh nghiệp.
Thứ tư, cần thúc đẩy xuất khẩu, kiểm soát chặt nhập khẩu vật liệu xây dựng. Cụ thể, ngoài việc điều chỉnh chính sách thuế liên quan đến xuất khẩu, cần xây dựng và ban hành hệ thống tiêu chuẩn chất lượng xi măng theo hướng hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xây dựng phải chủ động tìm kiếm, mở rộng thị trường ngoài nước
Thứ năm, cần nâng cao chất lượng tiết giảm chi phí sản xuất. Theo đó, các doanh nghiệp chủ động, đổi mới công nghệ, sử dụng hiệu quả năng lượng, tận dụng tối đa các nguồn nhiên liệu giá rẻ từ phế thải để tiết giảm chi phí sản xuất nâng cao năng lực cạnh tranh.
“Cần sửa đổi, hoàn thiện hành lang pháp lý (nghị định, thông tư, quy hoạch) và hành lang kỹ thuật (quy chuẩn, tiêu chuẩn) hướng đến phát triển ngành sản xuất xi măng theo đúng quan điểm, mục tiêu của Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021- 2030, định hướng đến năm 2050”, TS Nguyễn Quang Hiệp nhấn mạnh.
Có thể bạn quan tâm