Lợi dụng hình thức xuất khẩu chính ngạch, hàng giả đang được tuồn ra nước ngoài với thủ đoạn ngày càng tinh vi, đẩy Việt Nam vào nguy cơ bị lợi dụng trung chuyển…
Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, hội nhập sâu rộng với các thị trường toàn cầu, một thực trạng đáng lo đang âm thầm diễn ra: hàng giả, hàng nhái, đặc biệt là thuốc lá và các mặt hàng có giá trị cao đang bị các đối tượng buôn lậu lợi dụng gắn mác “Made in Vietnam” để xuất khẩu chính ngạch. Không chỉ gây thất thu ngân sách, thực trạng này còn đe dọa trực tiếp đến uy tín thương hiệu quốc gia.
Để làm rõ thực trạng và các giải pháp kiểm soát từ góc nhìn lực lượng thực thi, Diễn đàn Doanh nghiệp đã có cuộc trao đổi với ông Đặng Văn Đức – Phó Chi cục trưởng Chi cục Điều tra chống buôn lậu (Cục Hải quan) xung quanh vấn đề này.
- Xin ông cho biết các vụ việc điển hình liên quan đến xuất khẩu thuốc lá giả mà lực lượng Hải quan đã phát hiện trong nửa đầu năm 2025? Trong các vụ việc này, đối tượng vi phạm sử dụng những thủ đoạn gì để ngụy trang, che giấu hành vi?
Trong 6 tháng đầu năm 2025, lực lượng Hải quan – trọng tâm là Chi cục Điều tra chống buôn lậu đã xử lý nhiều vụ việc có quy mô lớn, sử dụng thủ đoạn tinh vi.
Đơn cử, container tại cảng Cát Lái chứa hơn 250.000 bao thuốc lá được khai là giấy vệ sinh; hay lô hàng tại cảng Cái Mép với 525.000 bao thuốc lá mang nhãn “Manchester – United Kingdom” nhưng có dấu hiệu giả mạo. Một container khác giấu 84.000 bao thuốc lá trong hai bồn thép hàn kín. Đáng chú ý, lô hàng quá cảnh từ Campuchia chứa tới 1.050 thùng thuốc lá Chesterfield giả, trị giá hơn 48 tỷ đồng.
Các thủ đoạn điển hình gồm: giấu hàng trong kết cấu đặc biệt như bồn thép, tủ quần áo; sử dụng doanh nghiệp ủy thác để che giấu chủ thể thật sự; giả mạo hồ sơ, khai sai tên hàng; dùng tiền điện tử và nền tảng mạng xã hội để điều phối giao dịch; thiết bị định vị mã hóa để theo dõi hành trình vận chuyển.
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và lưu lượng xuất khẩu lớn, mặt hàng thuốc lá đang bị các đối tượng tội phạm lợi dụng làm phương tiện buôn lậu xuyên quốc gia.
Việt Nam đang có nguy cơ trở thành điểm trung chuyển thuốc lá giả sang các nước phát triển. Do đó, công tác kiểm soát, phối hợp liên ngành và cập nhật phương thức thủ đoạn mới cần được nâng cao và chủ động hơn nữa.
- Hải quan có gặp tình trạng doanh nghiệp tạm nhập – tái xuất, “mượn đường” để hợp thức hóa không? Những tuyến đường, quốc gia nào bị lợi dụng nhiều nhất để tuồn hàng giả ra nước ngoài, thưa ông?
Rất nhiều! Tình trạng doanh nghiệp lợi dụng chính sách tạm nhập – tái xuất để hợp thức hóa hành vi buôn lậu, buôn bán hàng giả vẫn diễn ra phức tạp. Các thủ đoạn phổ biến là khai sai tên hàng, chủng loại, xuất xứ, trị giá hải quan để lẩn tránh kiểm tra thực tế; giả mạo chứng từ thanh khoản sau khi đã tráo hoặc tiêu thụ hàng hóa trong nước.
Ngoài ra, hình thức quá cảnh, vận chuyển và lưu kho ngoại quan cũng tiềm ẩn nguy cơ cao bị lợi dụng. Các đối tượng có thể rút ruột container, tráo hàng thật thành hàng giả hoặc tiêu thụ trái phép trước khi tái xuất.
Các tuyến đường thường bị lợi dụng gồm: đường bộ Việt Nam – Trung Quốc, đường biển tại các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Cái Mép – Thị Vải và đường hàng không với các mặt hàng có giá trị cao và thể tích nhỏ như mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, linh kiện điện tử.
Một thủ đoạn phổ biến là đưa hàng giả từ Trung Quốc quá cảnh Campuchia – Việt Nam, sau đó gắn nhãn “Made in Vietnam” để xuất khẩu, đánh lừa hệ thống kiểm soát của nước nhập khẩu. Ngoài Trung Quốc – nơi cung ứng nguồn hàng giả lớn, các nước ASEAN, khu vực Trung Đông, châu Phi và một số thị trường phát triển cũng là điểm đến cuối cùng của các lô hàng vi phạm.
- Quý Cục có kiến nghị gì về chính sách, thể chế hoặc cơ chế phối hợp để siết chặt kiểm soát tuyến xuất khẩu, đặc biệt là với các mặt hàng có nguy cơ bị làm giả cao như thuốc lá, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng?
Để nâng cao hiệu quả kiểm soát, đặc biệt trên tuyến xuất khẩu – nơi thường bị lợi dụng để hợp thức hóa hàng giả, chúng tôi kiến nghị:
Thứ nhất, tăng cường hậu kiểm đối với doanh nghiệp xuất khẩu, nhất là với giấy chứng nhận chất lượng, giấy phép tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Hậu kiểm phải toàn diện và độc lập, không chỉ dừng ở hình thức.
Thứ hai, siết chặt hoạt động giám định chất lượng hàng hóa. Các tổ chức giám định cần hoạt động khách quan, tránh bị chi phối bởi doanh nghiệp. Việc thiếu minh bạch trong kết luận giám định sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả kiểm tra – giám sát.
Thứ ba, xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành bền vững, có quy định rõ về trách nhiệm và quy trình xử lý thông tin. Việc chia sẻ dữ liệu giữa Hải quan, Công an, Quản lý thị trường, Biên phòng… cần được số hóa, kết nối liên thông, tránh xử lý rời rạc.
Thứ tư, hoàn thiện pháp lý trong xử lý vi phạm sở hữu trí tuệ với hàng xuất khẩu. Có nhiều trường hợp hàng giả được sản xuất ở nước ngoài nhưng lại gắn mác “sản xuất tại Việt Nam” để xuất đi nước thứ ba.
Cuối cùng, phân nhóm và cảnh báo sớm đối tượng rủi ro cao. Các lực lượng chức năng cần thống nhất danh sách doanh nghiệp, tuyến hàng, mặt hàng, quốc gia thường xuyên có dấu hiệu vi phạm để kịp thời kiểm soát.
- Trân trọng cảm ơn ông!