Ngay tại Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, tháng 2/1930, “Chánh cương vắn tắt” đã xác định “Nam nữ bình quyền” là một trong những nhiệm vụ của cách mạng nước ta.
>>Nữ doanh nhân tìm thấy nhiệt huyết từ tăng trưởng bền vững
Từ đó đến nay, chúng ta đã chứng kiến sự tham gia và vai trò ngày càng nổi bật của phụ nữ trong tiến trình phát triển đất nước.
Một trong những chỉ báo dễ hình dung nhất về sự thay đổi vị thế xã hội của phụ nữ là tỷ lệ nữ lãnh đạo, cả khu vực công và khu vực tư nhân.
Có thể kể ra các đại biểu nữ đã góp phần thay đổi hình ảnh phụ nữ Việt Nam hiện đại như nhà hoạt động cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai, nữ tướng Nguyễn Thị Định, hay các nữ chính khách sau này như Nguyễn Thị Bình, Trương Mỹ Hoa v.v.. Đặc biệt, với chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân của Quốc Hội khóa XIV, Việt Nam là một trong số ít những nước có phụ nữ đảm nhiệm vị trí trong ban lãnh đạo cao nhất của hệ thống chính trị. Gần đây, tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, có 01 phụ nữ tham gia Bộ chính trị (trong tổng số 18 thành viên) và 19 nữ ủy viên trung ương Đảng (trên tổng số 180 thành viên chính thức).
Tiến trình đổi mới đất nước trong hơn 35 năm vừa qua cũng đã tạo điều kiện thuận lợi để nhiều phụ nữ chứng tỏ khả năng sản xuất, kinh doanh. Đến nay, bên cạnh các nữ chính khách, người dân cả nước đã quen thuộc và không khỏi ngưỡng mộ các nữ doanh nhân đầy quyền lực như các bà Mai Kiều Liên – TGĐ Công ty Cổ phần Sữa VINAMILK Việt Nam, bà Nguyễn Thị Nga, Chủ tịch Tập đoàn BRG, Nhà Sáng lập Tập đoàn TH và thương hiệu sữa tươi sạch TH true MILK, bà Cao Thị Ngọc Dung, Chủ tịch HĐQT Công ty vàng bạc đá quý Phú Nhuận,…
Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2019 thì tỷ lệ nữ giới ở nước ta nhỉnh hơn nam giới (khoảng 48,3 triệu người so với 47,8 triệu nam giới). Tuy nhiên, như các số liệu đã dẫn ở phần trên, hiện vẫn còn sự chênh lệch rất lớn giữa nam và nữ trong các vị trí lãnh đạo kinh tế - chính trị. Về kinh tế, số doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ chỉ chiếm khoảng ¼ tổng số doanh nghiệp cả nước. Về chính trị, hiện tại chúng ta chỉ có duy nhất 01 nữ thành viên Bộ chính trị và tỷ lệ nữ ủy viên trung ương Đảng chỉ khoảng 10%.
Theo các nhà nghiên cứu, sự thay đổi vị thế xã hội của phụ nữ gặp rất nhiều rào cản, đặc biệt là tại các nước đang phát triển như nước ta. Trước hết, đó là năng lực còn hạn chế, thái độ còn thụ động của bản thân nữ giới. Tiếp đó là văn hóa và nhận thức xã hội nói chung còn coi trọng nam giới. Hệ thống chính sách đã có sự ưu tiên phụ nữ nhưng các quy định chưa rõ ràng nên khó áp dụng. Hệ thống thể chế áp dụng chung cho cả nam và nữ cũng chính là một rào cản trong rất nhiều tình huống.
Sau Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá X, năm 2018, Ban bí thư đã ban hành Chỉ thị số 21- CT/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới. Theo đó, một nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ mới là phải “nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
Sự xuất hiện ngày càng đông đảo của phụ nữ tại các vị trí lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị cũng như trong các doanh nghiệp đã từng bước thay đổi hình ảnh, quyền lực, và mức độ ảnh hưởng của phụ nữ ở nước ta. Tuy nhiên, thực tế những năm vừa qua cũng cho thấy nếu không có sự quyết liệt trong các hành động chính sách thì sẽ rất khó đạt được các mục tiêu phát triển nữ quyền.
Từ năm 2007, Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá X đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ”.
Có thể thấy, đến nay, chúng ta chưa đạt được các mục tiêu thúc đẩy phụ nữ tham chính nêu trên. Trong khu vực tư nhân, không chỉ còn ít về số lượng, quy mô doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ chủ yếu ở mức nhỏ, siêu nhỏ và trung bình thấp hơn so với các doanh nghiệp do nam giới làm chủ.
Để tạo ra sự chuyển biến tích cực về vị thế xã hội của phụ nữ thì cần thêm sự quyết liệt trong thực thi chủ trương, chính sách. Chẳng hạn, để thúc đẩy phụ nữ tham chính và đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo, quản lý thì cần coi việc đạt được các chỉ tiêu nêu ra trong Nghị quyết số 11-NQ/TW khóa X là một cơ sở bắt buộc để đánh giá mức độ thực hiện vai trò lãnh đạo của cá nhân đứng đầu và tổ chức Đảng các cấp.
Với khu vực tư nhân, các chính sách ưu tiên phụ nữ cần rõ ràng, cụ thể hơn về mục tiêu và biện pháp. Quy trình và thủ tục hỗ trợ phụ nữ cần đơn giản hơn để thuận lợi trong thực thi. Về lâu dài, chúng ta cần xây dựng hệ thống dữ liệu phân tách giới để làm cơ sở cho hoạch định chính sách thúc đẩy nữ quyền.
Có thể bạn quan tâm