Nuôi trồng thủy sản Quảng Ninh: Tiềm năng lớn - Khai thác nhỏ?
Quảng Ninh có lợi thế phát triển nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, theo đánh giá của ngành chức năng, Quảng Ninh vẫn chưa phát huy được hết tiềm năng trong lĩnh vực kinh tế này.
>>>Quảng Ninh: Rà soát, xử lý các dự án chậm tiến độ để làm sạch môi trường đầu tư
Chưa được quan tâm đúng mức
Trên địa bàn Quảng Ninh hiện có hơn 21.000ha, 14.506 ô lồng nuôi trồng thủy sản (NTTS); đã hình thành một số vùng NTTS: Vùng nuôi tôm gần 9.700ha, vùng nuôi nhuyễn thể 4.383ha, vùng nuôi cá song 550ha, vùng nuôi ghẹ 36ha, vùng nuôi cua kết hợp cá, tôm, gần 1.855ha...
Tuy nhiên, phát triển kinh tế thủy sản của Quảng Ninh hiện chưa phát huy hết tiềm năng, hiệu quả còn nhỏ. Nguyên nhân là công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch vùng nuôi, công tác giao, cho thuê mặt nước chưa được các địa phương quan tâm đúng mức.
Bên cạnh đó, vùng nuôi thủy sản ứng dụng công nghệ cao, theo chuỗi giá trị chưa nhiều, sản xuất còn nhỏ lẻ, chưa có tính liên kết, hiệu quả thấp, không ổn định, phụ thuộc nhiều vào thời tiết, dịch bệnh, thị trường. Công tác dự báo thị trường, truy xuất nguồn gốc, xây dựng thương hiệu giống, sản phẩm thủy sản còn hạn chế, chưa đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm nên xuất khẩu thường gặp khó khăn...
Ông Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam (VSA) cho biết: “Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp đang đầu tư và có nguyện vọng đầu tư vào lĩnh vực NTTS, nuôi biển tại Quảng Ninh. Tuy nhiên, còn rất nhiều rào cản chưa có phương án giải quyết triệt để, tạo điều kiện thu hút, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp”.
“Trong đó, nổi lên là những vướng mắc liên quan tới quy hoạch vùng nuôi; chủ trương, chính sách liên quan tới việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển theo Nghị định số 11/2021/NĐ-CP; việc cung cấp con giống còn yếu, lượng giống sản xuất tại Quảng Ninh rất ít, trong khi tỉnh đã có trung tâm sản xuất giống; vấn đề ô nhiễm môi trường biển ảnh hưởng đến việc nuôi trồng, chất lượng sản phẩm thủy sản”, ông Dũng nói.
Anh Nguyễn Minh Cương, một hộ NTTS theo hình thức lồng bè trên biển thuộc khu vực Bến Do (Cẩm Phả) cho biết: “Gia đình tôi làm nghề nuôi trồng thuỷ sản đã hơn 10 năm, tuy nhiên, đối với lĩnh vực này rủi ro từ thiên tai, dịch bệnh là rất lớn nên hiệu quả cũng rất bấp bênh”.
“Ví dụ 2 năm COVID vừa qua, toàn bộ bè nuôi gần như không thu về đống vốn lời nào. Thậm chí, nhiều loại phải đổ sông đổ biển như Hàu, ngao… thiệt hại trên dưới 100 triệu đồng. Ngoài ra, bão gió cũng là rủi ro lớn. Năm nào thì cũng có bão, mỗi lần như vậy thiệt hại là không ít. Việc này cũng khiến nhiều người dân từ bỏ nuôi trồng thủy sản chuyển hướng sang làm việc khác”, Anh Cương nói.
Giải pháp nào cho NTTS?
Trong chuyến công tác mới đây tại Quảng Ninh, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh: “Hiện nay, những khó khăn, vướng mắc trong việc phát triển NTTS trên biển đã xác định được. Do đó, tỉnh Quảng Ninh cần triển khai quyết liệt các giải pháp để sớm tháo gỡ những “nút thắt” này, tạo điều kiện để người dân an tâm sản xuất, thu hút doanh nghiệp tham gia đầu tư”.
Tuy nhiên, để làm được điều này, tỉnh phải có thống kê cụ thể, chi tiết quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của từng cơ quan quản lý, doanh nghiệp, cá nhân khi tham gia phát triển nuôi biển.
“Phải chỉ rõ cơ chế chính sách trong phát triển nuôi biển, hạ tầng, giống, thức ăn, thiết bị nuôi, thú y phòng bệnh... vướng mắc ở điểm nào, vấn đề nào thuộc về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, vấn đề nào thuộc trách nhiệm của doanh nghiệp. Cách chỉ đạo, điều hành phải sát thực tế, phải theo đuổi tới cùng vấn đề”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến lưu ý.
Theo Sở NN-PTNT, để phát triển bền vững NTTS trên biển đúng với tiềm năng, giải pháp trước mắt là, các địa phương cần phối hợp với các ngành chức năng rà soát, phân vùng chức năng không gian biển, xác định rõ những khu vực có khả năng NTTS theo từng loại nuôi cụ thể; xây dựng phương án giao khu vực biển theo quy định của Nghị định 11/2021/NĐ-CP của Chính phủ.
Ngành Nông nghiệp phối hợp với các địa phương tăng cường công tác ứng dụng, chuyển giao khoa học trong nuôi trồng, quản lý thức ăn, vật tư, con giống..., thực hiện quan trắc đánh giá môi trường nuôi, đảm bảo an toàn dịch bệnh; xây dựng chuỗi giá trị sản phẩm, cấp mã vùng nuôi, kỹ thuật nuôi cho từng loại thủy sản, đảm bảo phù hợp với sức tải môi trường.
Về lâu về dài, diện tích mặt nước biển trên địa bàn tỉnh cần phải được giao, cho thuê cụ thể đối với cá nhân, tổ chức NTTS, qua đó giải quyết dứt điểm tình trạng NTTS tự phát, trái phép, đảm bảo công tác quản lý nhà nước.
Dự kiến đến hết năm 2030, tổng diện tích nuôi biển Quảng Ninh phấn đấu đạt hơn 9.200 ha. Trong đó, diện tích nuôi từ 3 hải lý trở vào là 3.500 ha (chiếm 37,7% tổng diện tích nuôi biển), vùng 3 - 6 hải lý hơn 5.300 ha (chiếm 58%), vùng từ 6 - 12 hải lý là 400 ha (chiếm 4,3%). Tổng sản lượng đạt 94.000 tấn, tốc độ tăng trưởng bình quân về sản lượng giai đoạn 2025 - 2030 là 9,6%; giá trị sản xuất theo giá cố định trên 8.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 70% giá trị sản xuất nuôi trồng thủy sản. |
Có thể bạn quan tâm