Cần đồng bộ các quy định của Luật An ninh mạng
“Bên cạnh mặt tích cực, các quy định trong lĩnh vực an ninh mạng vẫn còn sự chồng chéo, bất cập, trở thành rào cản trong việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn quản lý thông tin trên mạng xã hội…”.
Đây là nhận định của TS Cao Vũ Minh – Trường Đại học Quốc Gia TP.HCM về những bất cập của Luật An ninh mạng hiện nay. Theo đó, TS Cao Vũ Minh cho biết, đã có nhiều văn bản pháp luật để quản lý thông tin trên MXH như Luật An toàn thông tin mạng năm 2015, Nghị định 72/2013; Nghị định 27/2018 sửa đổi, bổ sung Nghị định 72/2013; Nghị định 15/2020 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 14/2022)…
>>Facebook, Google chưa thực hiện lưu trữ dữ liệu như Luật An ninh mạng
Năm 2018, Quốc hội ban hành Luật An ninh mạng đã cho thấy tính hiệu quả của các thiết chế pháp luật đối với các hoạt động trên không gian mạng. Luật này không chỉ ghi nhận và hiện thực hóa quyền tự do ngôn luận mà còn góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Đối với cá nhân, tổ chức, từ khi có Luật An ninh mạng, các hoạt động liên lạc, trao đổi, đăng tải, chia sẻ thông tin trên không gian mạng vẫn được diễn ra bình thường. Đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng xã hội thì hoạt động vẫn được tiến hành bình thường, miễn là không vi phạm pháp luật.
Luật này quy định cụ thể hơn trách nhiệm phối hợp của doanh nghiệp trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng. Đồng thời, luật cũng hướng dẫn các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân áp dụng các biện pháp để tự bảo vệ mình trước những mối đe dọa từ không gian mạng.
Tuy nhiên, TS Cao Vũ Minh cũng cho biết, ngoài những ưu điểm, các quy định trong lĩnh vực an ninh mạng vẫn còn sự mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, trở thành rào cản trong việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn quản lý thông tin trên mạng xã hội.
>>Bộ Công an khẳng định Dự thảo Nghị định Luật An ninh mạng phù hợp với thông lệ quốc tế
Điển hình như Điều 62 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định khi xem xét vụ vi phạm để quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu xét thấy hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì người có thẩm quyền xử phạt phải chuyển ngay hồ sơ vụ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
“Tuy nhiên, đối với hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân trên mạng xã hội thì việc phân định giữa vi phạm hành chính và hành vi có dấu hiệu tội phạm còn vướng mắc”, TS Minh phân tích.
Cụ thể là Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định người nào “bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” thì phạm tội vu khống. Nếu người đó “sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội” thì sẽ bị phạt tù 1-3 năm.
Thế nhưng, Theo TS Cao Vũ Minh, hiện chưa có những hướng dẫn hay quy định mang tính định lượng cụ thể như xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác đến mức độ nào là nghiêm trọng? Chính vì thế nên việc xác định ranh giới để xử phạt vi phạm hành chính theo Điều 101 Nghị định 15/2020 (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 14/2022) hay truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 156 Bộ luật Hình sự trong trường hợp này còn gặp khó.
“Việc nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn hoặc sửa đổi, bổ sung các quy định còn chồng chéo, bất cập là điều cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thông tin trên mạng xã hội trong thực tiễn”, TS Cao Vũ Minh nói.
Có thể bạn quan tâm