Với 416/416 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, tại phiên họp sáng 24/6, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý Dự án Luật trước khi biểu quyết thông qua, Bộ trưởng Bộ Tư pháp - Nguyễn Hải Ninh cho biết, liên quan đến một số ý kiến đề nghị thuyết minh, làm rõ để bảo đảm tính khả thi của quy định nới lỏng điều kiện nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam cũng như yêu cầu về bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia.
Một số ý kiến đề nghị rà soát Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Dẫn độ, Luật Cư trú và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam... liên quan đến vấn đề quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài.
Chính phủ cho rằng, để áp dụng thống nhất pháp luật đối với công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài, Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 4 Điều 5 theo hướng luật hóa quy định tại Điều 5 Nghị định số 16/2020/NĐ-CP. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc mà pháp luật quốc tịch của hầu hết các nước đều quy định.
“Quy định trên nhằm khẳng định rõ ràng hơn nguyên tắc một quốc tịch trong pháp luật quốc tịch Việt Nam; bảo đảm phù hợp với các quy định có liên quan như Bộ Luật Dân sự, Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam”, Bộ trưởng chia sẻ.
Đồng thời cho hay, Dự thảo Luật đã có quy định giao các bộ ngành và cơ quan có liên quan rà soát; sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài trong thời hạn 2 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.
Về quy định tại khoản 5, khoản 6 và khoản 7 Điều 5, theo Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh, Chính phủ đã chỉnh lý để thực hiện kết luận của Bộ Chính trị đối với Dự án Luật.
Đồng thời tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội đề nghị cân nhắc kỹ quy định ngoại lệ đối với cả 4 nhóm đối tượng, nhất là các chức danh thuộc lực lượng vũ trang và cơ quan dân cử, cơ yếu do đây là những vị trí yêu cầu tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhà nước và Nhân dân, liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia.
Theo đó, tại khoản 5 Điều 5 quy định theo hướng quy định nguyên tắc “phải là người chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam và phải thường trú tại Việt Nam” đối với 4 nhóm và chỉ quy định ngoại lệ đối với nhóm công chức, viên chức (trừ công chức, viên chức công tác trong lực lượng vũ trang) nhằm thu hút các trường hợp có tài năng vượt trội có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Song song với đó, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã quy định cụ thể nguyên tắc áp dụng pháp luật trong trường hợp luật khác có quy định về quốc tịch khác với quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này…