Cả nước có 610.637 doanh nghiệp đang hoạt động, tổng nguồn vốn sử dụng cho sản xuất gần 39 triệu tỷ đồng. Tuy nhiên, có tới gần 48,4% doanh nghiệp kinh doanh lỗ.
Đây là nội dung được công bố tại Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam 2020 do Bộ KH&ĐT tổ chức sáng nay (28/4).
Theo ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho biết, năm 2019, tăng trưởng kinh tế đạt 7,02%, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát thấp nhất trong 3 năm qua. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa vượt mốc 500 tỷ USD.
Đặc biệt, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện thu hút nhiều doanh nghiệp thành lập mới và đầu tư nước ngoài, số người có việc làm tăng. Tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm giảm, thu nhập của người lao động tăng lên.
Cả nước có 758.610 doanh nghiệp đang hoạt động, tăng 6,1% so với cùng thời điểm năm 2018. Về mật độ, bình quân có 7,9 doanh nghiệp đang hoạt động trên 1.000 dân.
Tính đến 31/12/2019, số doanh nghiệp thành lập mới là 138.139 doanh nghiệp, tăng 5,2% so với năm 2018; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động là 39.421 doanh nghiệp, tăng 15,9%.
Theo số liệu điều tra và cập nhật của ngành thống kê tại thời điểm 31/12/2018, số doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh là 610.637 doanh nghiệp.
Trong đó, có 269.169 doanh nghiệp kinh doanh có lãi, 45.737 doanh nghiệp kinh doanh hòa vốn và 295.731 doanh nghiệp kinh doanh lỗ.
“Có thể thấy môi trường sản xuất kinh doanh năm 2019 rất thuận lợi, rất tốt. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động đạt mức cao nhất trong giai đoạn 2014-2019”, ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, nói.
Tuy nhiên, có tới 28.731 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh; số doanh nghiệp chờ giải thể là 43.711 doanh nghiệp; số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể là 16.840 doanh nghiệp.
Theo số liệu điều tra và cập nhật của ngành thống kê tại thời điểm 31/12/2018, số doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh là 610.637 doanh nghiệp.
Cụ thể, tổng nguồn vốn sử dụng cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh tại năm 2018 đạt 38,93 triệu tỷ đồng, tăng 18% so với cùng thời điểm năm 2017. Trong đó, có 269.169 doanh nghiệp kinh doanh có lãi, chiếm 44,1%; có 45.737 doanh nghiệp kinh doanh hòa vốn, chiếm 7,5% và 295.731 doanh nghiệp kinh doanh lỗ, chiếm 48,4%.
Theo Tổng cục thống kê, năm 2018, hiệu suất sử dụng lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp đạt 15,3 lần, tăng 1,04 lần so với năm 2017; chỉ số nợ 2,1 lần, bằng 0,85 lần năm 2017; chỉ số quay vòng vốn đạt 0,6 lần, bằng 0,96 lần năm 2017.
Trước những tác động tiêu cực của dịch COVID-19 trong năm 2020, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm cho rằng cần khai thác và phát triển thị trường nội địa: “Cần nâng cao sức tiêu dùng trong nước, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường số hóa trong doanh nghiệp,… để thúc đẩy phát triển doanh nghiệp” - ông nói.
Bên cạnh đó, cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu và cơ cấu khu vực doanh nghiệp để kết nối, nâng cấp chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Có thể bạn quan tâm
21:45, 22/07/2019
19:05, 10/07/2019
17:46, 10/07/2019
11:26, 10/07/2019
Đặc biệt, đây cũng là lần đầu tiên Sách trắng Hợp tác xã (HTX) Việt Nam năm 2020 là được phát hành gồm những thông tin cơ bản đánh giá mức độ phát triển HTX cả nước và các địa phương giai đoạn 2016-2018. Tổng cục thống kê cho biết đã tiến hành thu thập số liệu từ năm 2018.
Theo đó, tính tới thời điểm 31/12/2018 tổng số thành viên trong các HTX hiện có là 5.998.378 thành viên. Tổng số nguồn vốn sử dụng cho SXKD của HTX đang hoạt động có kết quả SXKD đạt 226.554 tỷ đồng, tăng 1,8% so với cùng thời điểm 2017.
Năm 2018, doanh thu thuần của toàn bộ khu vực HTX đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh đạt 88.586 tỷ đồng, tăng 9,6% so với năm 2017, tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng nguồn vốn của HTX ( 1,8%).
Tổng lợi nhuận trước thuế của khu vực HTX đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh năm 2018 đạt 2.575 tỷ đồng. Thu nhập bình quân tháng một lao động của các HTX đang hoạt động có kết quả SXKD năm 2018 đạt 3,84 triệu đồng, tăng 3,2% so với năm 2017.
Trên cơ sở thực trạng phát triển hợp tác xã, Tổng cục trưởng Nguyễn Bích Lâm đề xuất 3 nhóm chủ thể chính. Đó là, nhóm giải pháp về cơ chế chính sách; nhóm giải pháp về vốn, lao động, thị trường và nhóm giải pháp về đổi mới cơ chế hoạt động.
Theo đó, nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách là tiếp tục hoàn thiện khung pháp luật và chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác xã; rà soát, nghiên cứu, đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định còn bất cập tại Luật Hợp tác xã năm 2012; đơn giản hóa các thủ tục hành chính (thành lập, đăng ký và giải thể hợp tác xã); khuyến khích mở rộng quy mô (số lượng thành viên, tỷ lệ vốn góp của thành viên, tài sản chung không chia…); thành lập doanh nghiệp trong hợp tác xã; tỷ lệ cung ứng dịch vụ bên ngoài thành viên; chế tài xử lý vi phạm Luật… trên cơ sở tổng kết 10 năm thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012.
Bên cạnh đó, rà soát, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật có liên quan (đất đai, thuế, tín dụng…), tạo hành lang pháp lý thuận lợi để các thành phần kinh tế dễ dàng thành lập, tham gia, phát triển, rút khỏi hợp tác xã cho phù hợp với xu thế phát triển Hợp tác xã quốc tế và tình hình thực tế của Việt Nam trong mỗi giai đoạn phát triển.
Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2020 gồm những thông tin cơ bản đánh giá mức độ phát triển doanh nghiệp cả nước và các địa phương giai đoạn 2016-2019, gồm 6 phần: Bối cảnh phát triển doanh nghiệp Việt Nam 2019; Tổng quan phát triển doanh nghiệp Việt Nam năm 2019 và giai đoạn 2016-2019; Một số nét chủ yếu về doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất kinh doanh năm 2018 và giai đoạn 2016-2018; Đề xuất giải pháp phát triển doanh nghiệp; Bộ chỉ tiêu đánh giá phát triển doanh nghiệp năm 2019 và giai đoạn 2016-2019 toàn quốc; Bộ chỉ tiêu đánh giá phát triển doanh nghiệp năm 2019 và giai đoạn 2016-2019 các địa phương. |