Dự thảo Luật Phá sản (sửa đổi) ưu tiên triển khai thủ tục phục hồi, tạo điều kiện để doanh nghiệp khắc phục khó khăn và trở lại hoạt động, thay vì ngay lập tức tiến hành thủ tục phá sản.
Thực tiễn triển khai thực hiện Luật Phá sản năm 2014 vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, đặc biệt là thủ tục phức tạp, thời gian xử lý kéo dài và tỷ lệ doanh nghiệp được tái cơ cấu thành công còn thấp. Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức như nợ xấu gia tăng, tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu và cạnh tranh khốc liệt, yêu cầu sửa đổi Luật Phá sản trở nên cấp thiết. Việc sửa đổi Luật Phá sản nhằm đơn giản hóa quy trình, khuyến khích tái cơ cấu doanh nghiệp hài hòa, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn và đóng góp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Trình bày một số nội dung chủ yếu của Dự thảo, ông Lê Thế Phúc, Vụ trưởng Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Tòa án Nhân dân tối cao cho biết, Dự thảo bổ sung mới 22 điều, sửa đổi, bổ sung 60 điều, giữ nguyên 07 điều. Trong đó đáng chú ý là việc sửa đổi, bổ sung một số quy định về thủ tục phá sản như bổ sung chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; sửa đổi, bổ sung trình tự, thủ tục thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; bổ sung một số trường hợp không tạm đình chỉ thi hành án dân sự; bổ sung quy định cho phép bán một phần hoặc toàn bộ mảng kinh doanh, hoạt động kinh doanh; bán một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp, hợp tác xã để tối ưu hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Cùng với đó, sửa đổi, bổ sung quy định về việc giải quyết việc đình chỉ thi hành án, giải quyết vụ việc, tranh chấp phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản theo hướng giao Tòa án đang giải quyết phá sản giải quyết toàn bộ các loại việc này. Chánh án Tòa án có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định giải quyết tranh chấp….
Cũng theo Vụ trưởng Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Tòa án Nhân dân tối cao Lê Thế Phúc, ở lần sửa đổi này, Dự thảo đã bổ sung quy định về các nguyên tắc cơ bản và chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp tham gia thủ tục phục hồi, phá sản. Theo đó, doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán hoặc đã mất khả năng thanh toán có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phục hồi nhằm cứu doanh nghiệp trở lại hoạt động bình thường. Doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán được khoản nợ sẽ đến hạn trong 6 tháng hoặc khoản nợ đã đến hạn, nhưng chưa quá 6 tháng.
Theo Tòa án Nhân dân tối cao, doanh nghiệp là chủ thể biết rõ nhất tình hình tài chính, kinh doanh của mình. Việc cho phép nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh ngay từ khi doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán sẽ khuyến khích doanh nghiệp chủ động hơn trong việc nộp đơn yêu cầu phục hồi do không còn phải e ngại việc nộp đơn sẽ có nguy cơ cao bị phá sản. Đồng thời, việc nộp đơn từ sớm khi tình trạng khó khăn chưa quá trầm trọng sẽ tạo cơ hội, khả năng phục hồi cao hơn.
Chính sách khuyến khích phục hồi theo quy định của Luật Phá sản bao gồm khoanh tiền thuế nợ, tạm dừng việc thanh toán một số khoản nợ; tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội vào quỹ hưu trí, tử tuất... Đây là những biện pháp mang tính thủ tục mà không sử dụng ngân sách nhà nước.
Bên cạnh đó, Chính phủ có thể có những biện pháp khác hỗ trợ các doanh nghiệp phục hồi theo từng thời kỳ, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo mục tiêu hỗ trợ là nâng cao hiệu quả của nền kinh tế đất nước nói chung. Vì vậy, lợi ích kinh tế sẽ lớn hơn chi phí hỗ trợ, theo đánh giá của Tòa án Nhân dân tối cao.
Góp ý vào Dự thảo, ông Lê Hoàng Nhí, Giám đốc Công ty quản lý thanh lý tài sản cho rằng, khoản 1 Điều 28 của Dự thảo quy định việc lấy ý kiến của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, chủ nợ, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đối với phương án phục hồi, nhưng chưa nêu rõ trình tự, hình thức, thời hạn và trách nhiệm của từng chủ thể.
Theo ông Nhí, thiếu hướng dẫn cụ thể sẽ dễ dẫn tới lúng túng, thiếu thống nhất, thậm chí bị lợi dụng để trì hoãn tiến độ. Trong trường hợp có ý kiến trái chiều, Dự thảo cũng chưa có cơ chế xử lý, khiến quá trình thông qua hoặc điều chỉnh phương án phục hồi có nguy cơ rơi vào bế tắc, ảnh hưởng quyền lợi của chủ nợ, người lao động và cơ quan quản lý, làm giảm hiệu quả của chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
Vì vậy, đại diện đề xuất cần bổ sung vào Dự thảo quy định cụ thể về phương thức lấy ý kiến (bằng văn bản, qua họp biểu quyết, hoặc qua hệ thống điện tử), thời hạn trả lời, cơ quan chịu trách nhiệm tổng hợp, báo cáo và cơ chế giải quyết khi có sự bất đồng. Việc quy định rõ các nội dung này sẽ đảm bảo minh bạch, khả thi và công bằng, góp phần nâng cao hiệu lực thi hành luật.