Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức Diễn đàn Thúc đẩy phát triển bền vững khu công nghiệp Việt Nam sáng 28/03 tại Trụ sở VCCI Hà Nội.
Tính đến ngày 20/02/2024, cả nước đã có 418 KCN đã thành lập. Trong số các KCN đã được thành lập, có 298 KCN đã đi vào hoạt động và 120 KCN đang trong quá trình xây dựng. Các KCN đã trở thành điểm sáng về thu hút đầu tư trong và ngoài nước, đóng vai trò quan trọng trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, việc phát triển KCN thời gian qua đã bộc lộ một số hạn chế, đó là sự phát triển thiếu đồng bộ, thiếu gắn kết; sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài nguyên; ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường tự nhiên và môi trường sống của cộng đồng dân cư quanh KCN…
Trong bối cảnh đó, việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách về KCN, KKT, đặc biệt là hoàn thiện thể chế, chính sách về KCN, KKT để đảm bảo KCN, KKT tiếp tục đóng vai trò là mô hình quan trọng trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội là yêu cầu cấp thiết. Được sự chỉ đạo của VCCI, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức:
DIỄN ĐÀN THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KHU CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Thời gian: 08h30 - 11h30, Thứ Năm ngày 28/03/2024
Địa điểm: Hội trường tầng 7, tòa nhà VCCI, số 9 Đào Duy Anh, Hà Nội
Tham dự Diễn đàn có ông Nguyễn Quang Vinh - Bí thư đảng ủy VCCI, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Về phía các vụ, ban, ngành Trung ương và địa phương, các tổ chức quốc tế, có: TS Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bà Vương Thị Minh Hiếu - Phó Vụ trưởng, Vụ Quản lý Khu Kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Ông Nguyễn Công Thịnh – Phó Vụ trưởng, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Xây dựng; Ông Nguyễn Tiến Tài - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành Kinh tế Kỹ thuật, Bộ KH&CN; Bà Virginia Foote - Thành viên Ban điều hành Amcham Hà Nội
Đặc biệt, Diễn đàn có sự tham gia của lãnh đạo, đại diện các sở ngành, Ban quản lý Khu Kinh tế, Khu công nghiệp, các tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp trong nước và quốc tế, hiệp hội ngành nghề, hiệp hội doanh nghiệp địa phương, các doanh nghiệp đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, nhà đầu tư, các chuyên gia, nhà nghiên cứu.
Về phía ban tổ chức, có Nhà báo Nguyễn Linh Anh - Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp; Nhà báo Nguyễn Tiến Dũng - Phó Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp.
Ban tổ chức đặc biệt cảm ơn các nhà báo/phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí quan tâm, tham dự và đưa tin về Diễn đàn.
Ban tổ chức trân trọng cảm ơn: Công ty CP quản lý và dịch vụ KCN; Tập đoàn SP Group; Công ty CP Tốc Độ; Công ty TNHH MTV Nhựa Bình Minh miền Bắc; Tập đoàn Frasers Property Vietnam; Công ty Cổ phần KCN Gilimex; Công ty Cổ phần Western Pacific; Công ty TNHH Phát triển hạ tầng khu công nghiệp Hòa Phát Hưng Yên - Tập đoàn Hoà Phát; KTG Industrial Managed By BKIM; Công ty Kinh doanh bất động sản Viglacera đã đồng hành cùng chương trình.
"Chỉ dấu" cho các khuyến nghị chính sách và hành động
Phát biểu khai mạc Diễn đàn “Thúc đẩy phát triển bền vững Khu công nghiệp Việt Nam” ông Nguyễn Quang Vinh, Bí thư Đảng uỷ - Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, cả nước đã có 418 khu công nghiệp (KCN) đã thành lập, bao gồm 371 KCN nằm ngoài các KKT, 39 KCN nằm trong các KKT ven biển, 8 KCN nằm trong các KKT cửa khẩu, với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 129,9 nghìn ha. Tổng diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 89,2 nghìn ha.
Trong số các KCN đã được thành lập, có 298 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 92,2 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 63,1 nghìn ha và 120 KCN đang trong quá trình xây dựng với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 37,5 nghìn ha, diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 26,1 nghìn ha. Tổng diện tích đất công nghiệp đã cho thuê của các KCN cả nước đạt khoảng 51,3 nghìn ha, đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng 57,5%.
Nếu tính riêng các KCN đã đi vào hoạt động có tỷ lệ lấp đầy đạt khoảng 72,5%. Trong số 298 KCN đã đi vào hoạt động, đã có 272 KCN đã vận hành nhà máy xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường (đạt tỷ lệ khoảng 91,3%), đáp ứng chỉ tiêu kế hoạch Quốc hội giao.
Theo Phó Chủ tịch VCCI, các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đóng góp khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, góp phần vào việc chuyển cán cân thương mại của Việt Nam từ nhập siêu, đến cân bằng và sang xuất siêu, đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách.
>>PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KHU CÔNG NGHIỆP: "Chỉ dấu" cho các khuyến nghị chính sách và hành động
“Hệ thống khu công nghiệp, khu kinh tế đã góp phần quan trọng trong việc phát triển doanh nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển sản xuất công nghiệp, tham gia chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu”, ông Nguyễn Quang Vinh nhấn mạnh.
Theo Phó Chủ tịch VCCI, những con số và phân tích trên đây đã cho thấy rằng sự phát triển của các KCN đóng vai trò quan trọng trong bức tranh kinh tế - xã hội của Việt Nam, cũng như phát triển bền vững các KCN sẽ góp phần đáng kể vào việc hiện thực hóa các cam kết hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (NetZero) vào năm 2050, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 và nhiều chính sách quan trọng khác của Việt Nam.
Bên cạnh đó, ông Nguyễn Quang Vinh cũng cho biết, năm 2022, Hội đồng doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam (VBCSD-VCCI) cùng tổ chức Sáng kiến Thương mại bền vững tại Việt Nam (IDH Việt Nam) thực hiện 1 nghiên cứu, khảo sát thực trạng các KCN theo khung kinh tế, môi trường, xã hội và quản trị (EESG) với 19 nhóm chỉ tiêu chính, tại 118 KCN trên cả nước.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ ban hành chính sách phát triển EESG thấp: chỉ 39% có chính sách quản trị rủi ro để đảm bảo tuân thủ pháp luật về môi trường, 21% có chính sách quản trị rủi ro đảm bảo tuân thủ về xã hội, 10% có chính sách thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, 13% có chính sách về chuyển đổi số. Bên cạnh đó, nhận thức về KCN phát triển bền vững (PTBV) còn yếu.
Kết quả phỏng vấn sâu cho biết có tới 50% KCN chưa nghe đến khái niệm KCN PTBV, 30% có nghe hiểu về khái niệm KCN sinh thái và 20% hiểu rõ KCN PTBV cần bảo đảm cân đối về phát triển đồng thời của 4 trụ cột EESG.
Kết quả khảo sát cũng cho thấy chỉ có 22% KCN có chứng chỉ hệ thống quản lý quốc tế, đáng lưu ý 77% KCN không có thông tin kiểm toán cấp doanh nghiệp về các mặt tài chính, xã hội và môi trường.
“Kết quả của nghiên cứu cũng phần nào chỉ ra một số “điểm nghẽn” trong các khía cạnh về nhận thức, xây dựng chính sách, quản trị của các KCN liên quan đến việc phát triển bền vững các KCN. Đây cũng có thể là những chỉ dấu cho các khuyến nghị về chính sách và hành động để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa việc xây dựng, vận hành các KCN bền vững tại Việt Nam”, Phó Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.
Đồng thời cho biết trước thực tế này, VCCI đã đồng hành cùng các cơ quan Bộ ngành liên quan xây dựng những bộ chỉ số có ý nghĩa hết sức quan trọng, như Bộ chỉ số doanh nghiệp bền vững (CSI) ra mắt năm 2016.
Theo đó, VCCI là một trong những “đầu tàu” đi tiên phong mạnh mẽ nhất trong thúc đẩy phát triển cộng đồng doanh nghiệp bền vững. Với tầm nhìn đó, VCCI đã chủ trì xây dựng những bộ chỉ số có ý nghĩa hết sức quan trọng, như Bộ chỉ số doanh nghiệp bền vững (CSI) ra mắt năm 2016 - là công cụ hỗ trợ quản trị doanh nghiệp bền vững cho chính các doanh nghiệp Việt Nam.
“Các doanh nghiệp có thể “soi mình” vào đó với các chỉ số về môi trường, lao động, quản trị xã hội…. sẽ thấy được mức độ phát triển bền vững của mình. CSI là công cụ hết sức hữu hiệu được doanh nghiệp đánh giá cao trong suốt 8 năm qua”, ông Nguyễn Quang Vinh nhấn mạnh.
Bên cạnh CSI, VCCI còn cho ra mắt Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) từ năm 2005 mà nay đã trở thành một công cụ quan trọng để khuyến khích và thúc đẩy cải cách ở cả cấp trung ương và cấp địa phương về công tác điều hành kinh tế. Mới đây nhất, VCCI cũng cho ra mắt Chỉ số Xanh cấp tỉnh (PGI) ra mắt năm 2023, là bộ chỉ số đánh giá và xếp hạng địa phương thân thiện với môi trường dưới góc nhìn từ thực tiễn kinh doanh.
Phó Chủ tịch Nguyễn Quang Vinh kỳ vọng, những khuyến nghị từ Diễn đàn ngày hôm nay sẽ là đầu vào hữu ích để VCCI cùng các chuyên gia, các cơ quan liên quan khởi tạo thêm những ý tưởng mới, sáng kiến mới, đề án mới giúp thúc đẩy phát triển bền vững các khu công nghiệp tại Việt Nam.
Bà Vương Thị Minh Hiếu, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý Khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chia sẻ, trong thời gian qua Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã rất nỗ lực để phát triển các mô hình khu công nghiệp mới theo định hướng tăng trưởng xanh, phát triển bền vững và đã thể chế hóa mô hình này tại các văn bản pháp quy.
Hiện nay cả nước có khoảng 418 khu công nghiệp đã được thành lập, trong đó có 298 khu công nghiệp đi vào hoạt động với tổng diện tích khoảng 92,2 nghìn ha. Vì vậy, dư địa để phát triển các khu công nghiệp xanh, khu công nghiệp bền vững là rất lớn.
Ngoài ra, Chính phủ cũng quy định mô hình khu kinh tế có nhiều chức năng bao gồm cả khu công nghiệp. Do đó, việc phát triển đồng bộ, phát triển xanh trong hệ thống khu công nghiệp, khu kinh tế sẽ có những đóng góp tích cực và đáng kể vào nỗ lực chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi xanh mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết.
Theo số liệu thống kê của Bộ Công Thương đến tháng 8/2023, Việt Nam có 16 FTA đã ký kết và 3 FTA đang đàm phán. Trong các FTA này, những yêu cầu về chuỗi ngành hàng chuỗi giá trị và các khâu về sản xuất xanh sạch rất quan trọng, để các doanh nghiệp Việt Nam có thể tham gia vào thị trường khó tính. Đồng thời, mục tiêu để phát triển công nghiệp bền vững cũng đã được đưa vào các cam kết về phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc.
Tương tự, chiến lược Quốc gia và phát triển xanh giai đoạn 2021-2030 cũng như cam kết của Chính phủ tại COP26, là những yêu cầu bức thiết đặt ra đối với khu vực sản xuất công nghiệp để phát triển theo hướng xanh, bền vững.
Theo xu hướng này, mô hình khu công nghiệp truyền thống sẽ được thay đổi và phát triển theo hướng bền vững, tiệm cận với yêu cầu quốc tế. Nguyên lý của việc phát triển các khu công nghiệp bền vững bắt đầu từ sinh thái công nghiệp, chuyển đổi mô hình sản xuất theo nền kinh tế tuyến tính sang nền kinh tế tuần hoàn. Trong đó hệ sinh thái công nghiệp được phát triển như một hệ sinh thái tự nhiên và sản phẩm của quá trình sản xuất đầu ra này có thể là quá trình đầu vào của quá trình sản xuất khác. Tương tự, các sản phẩm phụ hay sản phẩm thải bỏ của một quá trình sản xuất cũng là nguyên liệu hữu ích đầu vào cho một quy trình sản xuất khác.
>>PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG KHU CÔNG NGHIỆP: Kinh nghiệm từ quốc tế và những nỗ lực của Việt Nam
Như vậy, những định hướng phát triển bền vững, định hướng về hiệu quả tài nguyên, sản xuất sạch hơn, cộng sinh công nghiệp đã được xây dựng. Trước hết là ở cấp độ doanh nghiệp, thì chuyển đổi sẽ tập trung vào các giải pháp hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn, những giải pháp về công nghệ ít carbon, sử dụng hóa chất, hoặc sử dụng năng lượng tái tạo,...
“Chúng ta sẽ hướng tới việc kết nối các khu công nghiệp với cộng đồng dân cư xung quanh và tập trung vào việc phát triển thành phố, đô thị theo hướng bền vững. Trong đó nhấn mạnh vào việc sử dụng quản lý tốt rác thải, tái sử dụng, cũng như nâng cao trách nhiệm xã hội của cộng đồng doanh nghiệp, cộng đồng sản xuất công nghiệp.
Thứ nhất, yếu tố quan trọng trong việc chuyển đổi xanh là sự hợp tác giữa các nhân tố trong cùng một mạng lưới. Ví dụ trong khu công nghiệp thì đó là giữa các doanh nghiệp với nhau, trong quy mô thành phố là quan hệ giữa khu vực sản xuất công nghiệp với khu vực dân cư.
Thứ hai, là khả năng hợp nhất giữa các khoảng cách địa lý, với các khoảng cách gần thì sẽ mang lại giá trị kinh tế cao hơn”, bà Hiếu cho biết.
Cũng theo bà Vương Thị Minh Hiếu, trong quá trình nghiên cứu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham khảo một số mô hình ở các khu vực như châu Âu, Mỹ và các quốc gia phát triển tại Đông Bắc Á.
Một trong những ví dụ điển hình về khu công nghiệp sinh thái đó là khu công nghiệp Kalundborg của Đan Mạch, với chu trình khép kín và khả năng liên kết, trong đó có 11 doanh nghiệp tham gia hưởng lợi từ 7 mạng lưới hợp tác, trao đổi nguyên vật liệu và 6 hệ thống hợp tác trao đổi đổi về nước và năng lượng. Mục tiêu là giảm chi phí của các doanh nghiệp trong mạng lưới, tăng mức độ kết nối phát triển các hoạt động sản xuất của mình.
Gần với Việt Nam hơn là ví dụ của thành phố Kawasaki tại Nhật Bản, là một thành phố công nghiệp rất lớn. Chỉ trong 10 năm họ đã thực sự chuyển mình từ thành phố công nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề bởi ô nhiễm sang thành phố xanh, sạch thông qua việc tái chế, tái sử dụng và thực hiện kinh tế tuần hoàn mạnh mẽ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, đặc biệt những ngành nghề sản xuất phục vụ tiêu dùng.
Hay khu công nghiệp sinh thái Hàn Quốc được tiến hành trong khoảng 15 năm từ năm 2005 đến những năm 2019 và trải qua 3 giai đoạn. Ban đầu họ chỉ thí điểm ở một vài khu công nghiệp. Sau đó, mô hình này đã đem lại hiệu quả về mặt kinh tế lớn và tiết kiệm được nhiều tài nguyên từ việc tái sử dụng nguyên vật liệu. Vì vậy Hàn Quốc quyết định nhân rộng mô hình trên toàn quốc, cho đến khi kết thúc chương trình thì đã có khoảng 150 khu công nghiệp sinh thái. Hiện nay, Hàn Quốc đã chuyển sang một chương trình mới hơn, đó là kinh tế tuần hoàn và giảm phát thải hướng tới giảm phát thải bằng 0.
Có thể nói, lợi ích của khu công nghiệp sinh thái và khu công nghiệp bền vững là rất lớn, giúp các doanh nghiệp sản xuất kết hợp được với nhau thực hiện các giải pháp xanh sạch hơn, tiết kiệm được chi phí và tối ưu hóa hoạt động sản xuất của mình.
Bên cạnh đó, họ cũng tăng thêm trách nhiệm về mặt môi trường, xã hội với cộng đồng xung quanh, từ đó nhận diện hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường sẽ được cải thiện.
Đặc biệt, mô hình phát triển bền vững cũng mang lại lợi ích cho cộng đồng xung quanh bằng cách giảm ô nhiễm, tăng chất lượng cuộc sống cho cộng đồng, giảm hóa chất độc hại ra môi trường và giảm phát thải khí nhà kính.
Đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư chia sẻ, tại Việt Nam, Bộ đã cùng với sự hỗ trợ của một số tổ chức quốc tế triển khai hai giai đoạn phát triển khu công nghiệp sinh thái, tương tự như mô hình Hàn Quốc đó là: Giai đoạn 1, thí điểm thực hiện từ năm 2014-2019 với 3 khu công nghiệp tại 3 tỉnh thành phố đại diện cho ba miền, với những giải pháp can thiệp tại 72 doanh nghiệp trong khu công nghiệp, đạt được hiệu quả tiết kiệm tương đối lớn.
Giai đoạn 2, từ năm 2020 đến nay, các tỉnh thành phố như Hải Dương, Hải Phòng, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh là những địa phương có mật độ khu công nghiệp rất lớn và điển hình về phát triển khu công nghiệp trên toàn quốc, với thời gian phát triển khu công nghiệp rất lâu, có nhiều đóng góp tích cực trong việc phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương. Quá trình triển khai hiện nay vẫn đang tiếp tục và dự kiến giai đoạn này sẽ kết thúc vào năm 2024, để tiếp tục thực hiện giai đoạn 3 tại một số tỉnh thành phố khác.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng có hợp tác với một số tổ chức quốc tế như World Bank và gần đây là kết hợp với Phái đoàn Liên minh châu Âu trong việc thiết kế là một số dự án hỗ trợ nhân rộng mô hình khu công nghiệp sinh thái trên toàn quốc.
“Thực tế, việc nỗ lực của các doanh nghiệp không chỉ giới hạn ở những doanh nghiệp được Bộ Kế hoạch và Đầu tư hỗ trợ, mà đơn cử như khu công nghiệp Nam Cầu Kiền đã chủ động thực hiện các giải pháp để phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn. Chúng tôi đánh giá đây là một trong những điển hình của khu công nghiệp tư nhân trong việc chủ động thực hiện cam kết quốc tế về phát triển bền vững của Chính phủ.
Về cơ chế hỗ trợ, chúng tôi nhấn mạnh vai trò của UBND các tỉnh trong việc hỗ trợ đầu tư xây dựng, nâng cấp các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội trong và ngoài hàng rào khu công nghiệp, để hỗ trợ việc kết nối và thực hiện các sáng kiến khu công nghiệp sinh thái, cũng như chuyển giao các công nghệ tiên tiến trong khu công nghiệp”, bà Hiếu nhấn mạnh.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp hợp tác với nhau, để được sử dụng chung các hệ thống hạ tầng sản xuất tái sử dụng nguyên liệu sản xuất. Đồng thời có thể kết hợp với doanh nghiệp thứ ba ở ngoài khu công nghiệp trong việc hiện thực hóa các kết nối cộng sinh công nghiệp.
Tuy nhiên, vai trò quan trọng của việc hỗ trợ thực hiện giải pháp khu công nghiệp sinh thái là ban quản lý các khu công nghiệp tại các tỉnh thành phố. Ban quản lý có thể giao cho một đơn vị công lập thực hiện các chức năng xây dựng, cung cấp thông tin, kết nối, tư vấn quá trình triển khai thực hiện khu công nghiệp sinh thái.
Ông Ling Foong - Giám đốc Phát triển bền vững Frasers Property Vietnam bày tỏ, trở thành “điểm nóng” về sản xuất công nghiệp và hậu cần đồng nghĩa với nhu cầu phát triển các khu công nghiệp đẳng cấp, chất lượng cao tại Việt Nam ngày càng tăng nhằm mang lại môi trường làm việc hiệu quả, tiết kiệm chi phí vận hành, thúc đẩy sự gắn bó giữa người lao động với doanh nghiệp.
Nhìn lại sự phát triển của mô hình khu công nghiệp tại Việt Nam trong những thập kỷ gần đây, ông Ling Foong cho biết, khu công nghiệp trải qua 4 giai đoạn chuyển đổi từ khu công nghiệp cơ bản thành mô hình công nghiệp đô thị vệ tinh thông minh để có thể đáp ứng các yếu tố sản xuất, sinh hoạt, nghỉ ngơi và giải trí.
Trong giai đoạn đầu tiên, theo ông Ling Foong, sự phát triển của cơ sở vật chất công nghiệp xuất phát từ yếu tố cơ bản nhất gồm hệ thống phụ trợ điện, nước, phòng cháy chữa cháy và hệ thống giao thông chủ yếu phục vụ cho sản xuất.
Giai đoạn 2, khu vực sản xuất phát triển ở mức cao hơn khi được xây dựng để trở thành một phần của phát triển đô thị. Các khu công nghiệp hướng tới việc thu hút những lao động có trình độ tay nghề, tạo dựng môi trường làm việc, khu vực mua sắm, sinh hoạt an toàn cho công nhân và nhân viên trong khu công nghiệp.
Mô hình trung tâm dịch vụ đa năng được Frasers Property Vietnam triển khai tại các dự án công nghiệp của mình là ví dụ của mô hình tích hợp các cơ sở vật chất cần thiết và cao cấp để đáp ứng các dịch vụ hậu cần như không gian phòng họp, không gian thư giãn, không gian sinh hoạt cho công nhân viên và các khu vực nội khu phục vụ cho nhu cầu ăn uống cũng như các cửa hàng tiện lợi cho tiện ích cơ bản.
Giai đoạn 3 của khu công nghiệp mang đến tổ hợp đa dạng và năng động gồm chuỗi cơ sở vật chất công nghiệp bao quát cũng như dịch vụ an sinh như giáo dục, y tế, khách sạn, giải trí và công nghệ thông tin. Không gian khu công nghiệp ở giai đoạn này thường được ví như thành phố công nghiệp và thu hút lao động có chất lượng tay nghề cao. Việc thực thi tiêu chuẩn xanh hóa khu công nghiệp là điều tất yếu ở giai đoạn này để mang đến môi trường sống và làm việc an toàn, bền vững không chỉ cho người lao động mà còn cho mọi thế hệ gia đình sinh sống, làm việc, học tập và nghỉ ngơi...
Đây cũng là tiền đề cho giai đoạn 4 - khu công nghiệp đô thị vệ tinh thông minh, thực hành nhân tố bền vững. Không chỉ dừng lại là một phần tách biệt của không gian địa phương, cơ sở vật chất công nghiệp vệ tinh thông minh có khả năng liên kết và tích hợp các không gian đô thị, là nơi tạo mọi nguồn cảm hứng để các công dân tại đây có thể biến các sáng kiến thành sản phẩm.
Các không gian công nghiệp này được kiến tạo dựa trên các yếu tố bền vững chuẩn mực, thể hiện ngay từ bước thiết kế, chọn nguyên vật liệu xây dựng thân thiện với môi trường, tận dụng không gian chiếu sáng tự nhiên tối ưu để giảm hiệu suất điện sử dụng cho doanh nghiệp. Không gian công nghiệp được kiến tạo để có thể truyền cảm hứng, xây dựng một cộng đồng cởi mở, năng động và kích thích sự sáng tạo.
Ông Ling Foong cho biết thêm: Các cơ sở công nghiệp của Frasers Property Vietnam hướng tới mục tiêu chiến lược vượt qua giai đoạn 2 và từng bước đạt tới giai đoạn 3 và 4 để kiến tạo các khu công nghiệp bền vững và thông minh; cung cấp dịch vụ khác trong khu công nghiệp như sân chơi thể thao ngoài trời, các không gian để người lao động và nhân viên nghỉ ngơi, trao đổi ý tưởng.
Điều hành phiên thảo luận, Nhà báo Nguyễn Linh Anh – Phó Tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp cho biết, một trong những vấn đề cơ bản cản trở cho sự phát triển bền vững của các Khu công nghiệp, Khu kinh tế tại Việt Nam chính là những lỗ hổng pháp lý. Do vậy, tại phiên thảo luận này chúng ta sẽ cùng lắng nghe các ý kiến từ các góc độ khác nhau nhằm định hướng và đưa ra các giải pháp từ thực thế nhằm thúc đẩy phát triển bền vững khu công nghiệp Việt Nam.
Phát biểu tại phiên thảo luận, PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến - Đại học Luật Hà Nội cho biết, giữa hiện thực và thể chế pháp lý luôn có một khoảng cách. Có nhiều điểm nghẽn pháp lý khiến cho sự phát triển KCN, KKT tại Việt Nam hiện tại đang gặp rất nhiều khó khăn.
Ông Tuyến đã đưa ra những nghiên cứu, đánh giá hoạt động của các KCN, KKT ở nước ta trong thời gian qua để làm nổi bật một số tồn tại cản trở sự phát triển bền vững của KCN, KKT, trong đó ông đưa ra 7 vấn đề và 7 giải pháp, cụ thể là:
Vấn đề thứ nhất theo PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến là những thể chế, chính sách về KCN, KKT chưa đảm bảo tính ổn định, thống nhất, đồng bộ và chưa có sự đột phá để phát huy vai trò và đóng góp của các KCN, KKT trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, tính pháp lý về quy định khung đối với KCN, KKT chưa cao. Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của KCN, KKT chưa có sự thay đổi căn bản, mới “dừng lại” ở loại hình văn bản dưới luật.
Vấn đề thứ hai là chất lượng, hiệu quả quy hoạch phát triển KCN, KKT chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển KCN, KKT cần có tầm nhìn tổng thể, dài hạn; đặt trong mối quan hệ tương quan với các ngành kinh tế khác, với sự phát triển vùng và với xã hội.
Vấn đề thứ ba là loại hình phát triển của các KCN, KKT chậm được đổi mới; quy định về quản lý KCN, KKT có sự khác biệt với các luật chuyên ngành.
Đồng thời, còn nhiều chồng chéo giữa các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với KCN, KKT.
Vấn đề thứ tư là chất lượng, hiệu quả thu hút đầu tư vào KCN, KKT chưa đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều sâu; sự liên kết, hợp tác trong KCN, KKT; giữa các KCN, KKT với nhau và giữa KCN, KKT với khu vực bên ngoài còn hạn chế.
Vấn đề thứ năm là vấn đề phát triển bền vững và cân bằng về kinh tế, môi trường và xã hội trong phát triển KCN, KKT đã được đặt ra nhưng kết quả thực hiện khác nhau và không đồng đều giữa các địa phương. Một số địa phương chưa thực hiện tốt việc phát triển bền vững KCN, KKT về môi trường và xã hội.
Vấn đề thứ sáu về quản lý, sử dụng đất cũng được coi là một trong những cản trở sự phát triển của KCN, KKT tại Việt Nam. Trên thực tế, việc chưa đặt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất làm nền tảng cho tất cả các nội dung quy hoạch khác mà vẫn trên cơ sở quy hoạch ngành (quy hoạch chung xây dựng; quy hoạch phân khu chức năng; quy hoạch chi tiết xây dựng…).
Mặt khác, kinh phí dành cho việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong KKT còn hạn chế. Tỷ lệ lấp đầy của các KCN chỉ ở mức 57,2% (năm 2022) là tương đối thấp. Cùng với đó là tỷ suất thu hút đầu tư trung bình của dự án đầu tư trong KCN là 4,61 triệu đô la Mỹ/ha đất công nghiệp đã cho thuê. Tỷ lệ này tuy có gia tăng qua các thời kỳ nhưng vẫn tương đối thấp.
Vấn đề thứ bảy tổ chức bộ máy cơ quan đầu mối quản lý nhà nước đối với KCN, KKT ở Trung ương và địa phương chậm được kiện toàn, nâng cấp để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.Cũng trong buổi thảo luận, PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến đã đưa ra một số giải pháp khắc phục.
Đồng thời, xây dựng các chính sách đầu tư bắt buộc nhằm đồng bộ hóa quá trình đầu tư, đảm bảo việc khai thác quỹ đất và đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật của khu CN, khu KT nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người công nhân làm việc trong KCN, KKT…”- PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến nhấn mạnh.
Theo ông Tuyến, việc hoàn thiện khung pháp lý, giải quyết các vướng mắc trong hoạt động đầu tư phát triển KCN, KKT là một trong những vấn đề quan trọng, nhằm tạo khung pháp lý hoàn chỉnh, đầy đủ cho hoạt động đầu tư phát triển KCN, KKT.
Cũng theo ông Tuyến, cần phải dựa trên cơ sở quy định của Luật Kinh doanh BĐS năm 2024, Chính phủ, Bộ Xây dựng và các bộ, ngành hữu quan nghiên cứu, soạn thảo ban hành các quy định về phân khúc BĐS công nghiệp góp phần đưa hoạt động của phân khúc BĐS này đi vào nề nếp và thúc đẩy sự vận hành của phân khúc BĐS công nghiệp thông suốt, lành mạnh.
Bên cạnh đó, cần nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước các cấp trong phát triển KCN, KKT, đồng thời tăng cường phân cấp, ủy quyền quản lý nhà nước trên các lĩnh vực nhằm xây dựng Ban Quản lý KCN, KKT là cơ quan “đầu mối, tại chỗ” với quy trình thủ tục hành chính đơn giản; xây dựng và triển khai chính sách phát triển các KCN, KKT.
Theo ông Tuyến, cần phải xây dựng luật điều chỉnh hoạt động của KCN, KKT và mô hình khác theo hướng xác định rõ trọng tâm phát triển và cơ chế, chính sách vượt trội về cơ sở hạ tầng, tiếp cận đất đai; thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, doanh nghiệp, xây dựng... Các thiết chế giải quyết tranh chấp và thực thi; quy định đảm bảo phát triển đồng bộ và bền vững về KT-XH, môi trường... nhằm phù hợp với đặc thù của từng mô hình, đảm bảo tính liên kết, đồng bộ với các khu vực khác.
Ngoài ra, cần nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với KCN, KKT; trong đó tập trung vào các nội dung kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về KCN, KKT ở cả trung ương và địa phương theo hướng tinh gọn.
Đồng thời phải xây dựng các chính sách, pháp luật đảm bảo gắn kết đồng bộ quy hoạch KCN, KKT với phát triển đô thị, dịch vụ trong một phương án tổng thể, thống nhất từ quy hoạch cấp quốc gia đến quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh.“Xây dựng cơ chế, chính sách, pháp luật đồng bộ, mang tính hấp dẫn để thu hút các nguồn vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào KCN, KKT.
Ông Lê Hữu Phúc - Phó Trưởng Ban Quản lý khu kinh tế Quảng Ninh thông tin, Quảng Ninh hiện có 9 khu công nghiệp, các khu công nghiệp của Quảng Ninh chủ yếu là dự án FDI. Thực tiễn dự án của FDI chủ yếu ở khu công nghiệp (KCN), trong khi đó thu hút FDI ở khu kinh tế (KTT) còn thấp với rào cản đặc biệt là về vấn đề pháp lý.
Theo ông Phúc, thể chế chính sách liên quan tới KCN, KTT cần được xây dựng ở ngưỡng cao hơn. Bởi hiện nay mới ở mức Nghị định, do đó, cần ban hành Luật về KCN, KTT để tạo hành lang pháp lý. Toàn bộ quy trình quy hoạch KCN, KTT hiện rải rác ở các Luật chuyên ngành, khiến doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn.
Thậm chí, theo Phó Trưởng Ban Quản lý khu kinh tế Quảng Ninh, Luật Đất đai mới lại đi “thụt lùi” đối với quy định liên quan KCN, KTT khi không còn quy định riêng mà việc quản lý đất đai chung như các khu vực khác, không còn cơ chế giao lại đất, chính sách ưu đãi về đất đai cho KTT gần như không có.
Bên cạnh đó, về cơ chế chính sách đặc thù thì Quảng Ninh đã nghiên cứu thấu đáo về chính sách đặc thù cho khu kinh tế nhưng vẫn chỉ đang được nghiên cứu.
Do đó, ông Phúc cho rằng chúng ta cần nghiên cứu các cơ chế chính sách tạo động lực phát triển hơn cho các KCN, KTT mà đặc biệt là đặc khu.Về huy động nguồn lực ngân sách đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế Phó Trưởng Ban Quản lý khu kinh tế Quảng Ninh đánh giá còn hạn chế. Nguồn lực phân bổ hạn chế, chính sách hu hút nguồn lực vào các khu vực đấu nối hạ tầng cũng thấp hơn. Do đó, cần chính sách hiệu quả.
Bà Trần Thị Tố Loan, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn đầu tư Sao Đỏ cho biết, mô hình khu công nghiệp truyền thống và khu công nghiệp bền vững có những điểm khác biệt cơ bản đáng chú ý, phản ánh qua cách tiếp cận, mục tiêu và tác động đến môi trường cũng như cộng đồng xã hội.
Thứ nhất, về tiếp cận và mục tiêu, trước đây, các khu công nghiệp truyền thống thường tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận và tăng trưởng kinh tế mà không đặt nặng vấn đề bảo vệ môi trường hoặc phúc lợi xã hội. Hiện tại, mô hình khu công nghiệp bền vững được thiết kế và quản lý theo định hướng tích hợp mục tiêu phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã hội, nhằm đạt được sự phát triển bền vững.
Mục tiêu là xây dựng một khu công nghiệp mà ở đó tất cả mọi người, từ các cá nhân làm việc và sinh hoạt trong KCN đến các doanh nghiệp đều có thể sống tốt, phát triển mà không làm hại đến môi trường, hành tinh và tương lai của chúng ta. Do đó, mô hình KCN bền vững không thể được thực hiện bởi duy nhất mong muốn của nhà đầu tư phát triển hạ tầng mà đòi hỏi sự hợp tác và cam kết từ tất cả các tổ chức, doanh nghiệp đang hoạt động, vận hành trong KCN từ nhà máy sản xuất đến các công ty cung ứng dịch vụ KCN.
Thứ hai, là tác động đến môi trường. KCN truyền thống có thể gây ra ô nhiễm không khí, nước và đất do tiêu thụ nhiều năng lượng và nguyên liệu một cách không hiệu quả và phát thải lớn. Còn KCN bền vững áp dụng các công nghệ sạch, tái sử dụng và tái chế nguyên liệu, giảm thiểu chất thải và phát thải, bảo vệ nguồn nước và đa dạng sinh học.
Thứ ba, là sử dụng năng lượng. KCN truyền thống thường phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, gây ra các vấn đề về biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường. Hiện tại phần lớn nguồn năng lượng trong KCN đến từ nguồn cung cấp của EVN, trong đó, nhiệt điện than, dầu chiếm 1 nửa nguồn cung cấp điện của EVN.
Trong khi đó, KCN bền vững ưu tiên sử dụng năng lượng tái tạo, năng lượng sạch và công nghệ hiệu quả năng lượng, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Ví dụ: Sử dụng năng lượng mặt trời, thay thế nhiệt lò hơi từ than đá bằng khí LNG là loại năng lượng hiệu suất cao hơn và ít ảnh hưởng đến môi trường hơn,…
Thứ tư, là quản lý chất thải. Với KCN truyền thống, xử lý chất thải theo cách phổ biến thông thường có thể gây hại cho môi trường. Điển hình nhất là phương pháp chôn lấp hoặc đốt cháy không kiểm soát. Thậm chí đường đi và phương pháp xử lý của các loại rác thải này ít được ghi nhận và báo cáo một các trung thực. KCN bền vững tập trung vào quản lý chất thải thông qua các phương pháp tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải từ nguồn gốc.
Thứ năm, là yếu tố xã hội. KCN bền vững đề cao yếu tố xã hội, tạo ra môi trường làm việc bền vững nơi bảo đảm sức khỏe và an toàn cho người lao động, thúc đẩy phúc lợi cá nhân, sự gắn kết và hòa nhập xã hội, đồng thời tạo ra cơ hội bình đẳng (bình đẳng giới, tuổi tác, tình trạng sức khỏe,…).
Có thể thấy, việc xây dựng KCN bền vững mang lại nhiều lợi ích đáng kể, không chỉ về mặt kinh tế mà còn về môi trường và xã hội. Cụ thể là: giảm tác động môi trường; tiết kiệm năng lượng và nguồn lực; tăng cường đổi mới và sự hợp tác; Nâng cao uy tín và hình ảnh thương hiệu tại thời điểm hiện tại, đồng thời giảm các rủi ro và pháp lý có thể trong tương lai; Tạo ra môi trường làm việc tốt hơn trong KCN cũng như mang đến nhiều lợi ích cho cộng đồng”, bà Loan nhấn mạnh.
Để đạt được yêu cầu của KCN bền vững, chúng ta cần có các cam kết mạnh mẽ hơn và có kế hoạch hành động để đẩy mạnh các cam kết này. Theo vị Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn đầu tư Sao Đỏ, khu công nghiệp đang hướng tới thực hiện việc thu thập dữ liệu, báo cáo và công bố thông tin.
Tuy nhiên trong đó còn có nhiều khó khăn, đầu tiên là một số vấn đề về nguồn vốn và tài chính. Các khu công nghiệp phần lớn được phát triển theo giai đoạn cuốn chiếu, việc đầu tư một cách đồng bộ toàn bộ hệ thống các phân khu chức năng và hệ thống xử lý nước thải, hệ thống hoàn thiện điện nước thì cần nguồn vốn lớn và phải đầu tư ngay từ ban đầu.
Tiếp đó là đến từ năng lực cũng như các quy định pháp lý của nhà nước. Hiện nay, rất nhiều quy định chưa rõ ràng, gây cản trở cho khu công nghiệp trong việc chuyển đổi mô hình.
“Trong Nghị định 35/2022 có giới thiệu về mô hình KCN sinh thái, khi nói về việc KCN tham gia vào hoạt động sản xuất sạch hơn, sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả hơn có đưa ra một chỉ tiêu cụ thể đó là phải có 20% doanh nghiệp trong khu phải thực hiện các sản xuất sạch hơn. Nhưng quy định này không cụ thể thế nào là "sạch hơn" hay như thế nào là "sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn". Trong khi để sử dụng tài nguyên sạch hơn, hiệu quả hơn, thì bản thân KCN và các doanh nghiệp trong khu cũng phải đầu tư một nguồn tài chính rất lớn để thay đổi toàn bộ công nghệ, dây chuyền. Trong khi đó, lại không có quy định cụ thể thì rất khó để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi”, bà Loan nêu ví dụ.
Ngoài ra, để sử dụng hiệu quả tài nguyên, cần tái sử dụng tài nguyên nhưng thực tế qua quá trình thu hút đầu tư, bản thân KCN gặp khó khăn khi thu hút các dự án tái chế đến từ quy định pháp luật về việc KCN có được thu hút các ngành nghề đó không? Và nếu thu hút, thì phải thay đổi toàn bộ hệ thống như báo cáo tác động tài nguyên, môi trường, giấy phép hệ thống quan trắc để phù hợp với việc thu hút những ngành nghề đó.
Đặc biệt từ góc nhìn từ phía cơ quan quản lý, họ có muốn thu hút các dự án tái chế hay không, hay tập trung thu hút những dự án mang lại hiệu suất cao hơn như dự án điện tử...
Bà Loan chia sẻ một ví dụ khác nữa là về nước thải. Hiện toàn bộ nước thải theo quy định đều phải xả thải ra ngoài môi trường thông qua hệ thống quan trắc và xử lý tự động, nghĩa là không được tái sử dụng trong KCN. Trong khi hiện nay, với hệ thống xử lý nước thải mới, với quyết tâm về việc giữ gìn môi trường, thì KCN đã xử lý nước thải cấp A, ít nhất có thể sử dụng vào việc tưới tiêu trong khu công nghiệp, nhưng vẫn rất khó khăn trong việc vận hành.
Đối với vấn đề về quy định liên kết hợp tác trong sản xuất để thực hiện cộng sinh công nghiệp. Đứng ở góc độ là các doanh nghiệp trong khu khi có liên kết sản xuất, theo định nghĩa có rất nhiều loại cộng sinh, có thể là cộng sinh về dịch vụ, chia sẻ tiện ích, cơ sở hạ tầng KCN, hay tái sử sụng rác thải... Nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng đủ điều kiện để xử lý các chất thải, mà chỉ có một số doanh nghiệp đủ điều kiện tiếp nhận rác thải.
“Hiện nay, toàn bộ rác thải trong khu công nghiệp đều được đưa ra ngoài KCN để xử lý và có rất ít báo cáo cũng như các vấn đề theo dõi về việc xử lý rác thải như ra sao. Thông thường, việc dễ gây ô nhiễm môi trường đó là chôn lấp hay đốt rác thải, mà bản thân các doanh nghiệp thì ít theo dõi được các nguồn thông tin về rác thải là vấn đề rào cản rất lớn”, bà Loan phân tích.
Phát biểu tại Diễn đàn, bà Virginia Foote - thành viên Ban điều hành AmCham Hà Nội, CEO Bay Global Straegies chia sẻ: Hoa Kỳ - Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược; trong đó nhấn mạnh thúc đẩy hợp tác thương mại đầu tư giữa hai quốc gia. Một trong những nội dung chính được đề cập là Hoa Kỳ hỗ trợ Việt Nam thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao.
Theo CEO Bay Global Straegies, người tiêu dùng Hoa Kỳ hiện là những khách hàng lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam. Theo xu hướng phát triển của toàn cầu, các nhãn hàng và người tiêu dùng Hoa Kỳ đều mong muốn thể hiện tính bền vững trong sản phẩm hàng hoá do nhãn hàng sản xuất trong chuỗi cung ứng.
Đánh giá cao cam kết của Chính phủ Việt Nam tại hội nghị COP26 hướng tới NetZero vào năm 2050 song CEO Bay Global Straegies cũng chia sẻ: người tiêu dùng Hoa Kỳ muốn có tính bền vững trong sản phẩm, hàng hoá như sử dụng năng lượng tái tạo ngay tại thời điểm này.
Để kết nối khoảng cách giữa cam kết và nguyện vọng này, CEO Bay Global Straegies cho rằng, Việt Nam chú trọng thu hút đầu tư chất lượng cao; chú trọng sản xuất xanh cung cấp sản phẩm giảm dấu chân carbon đáp ứng mong muốn của người tiêu dùng Mỹ, châu Âu, Nhật Bản.
Bên cạnh đó, Việt Nam phải tính đến sự cạnh tranh từ các quốc gia trong khu vực cũng đang tích cực đón đầu sự thay đổi chuỗi cung ứng và nắm bắt xu hướng toàn cầu.Đề xuất các giải pháp thúc đẩy phát triển bền vững khu công nghiệp, bà Virginia Foote cho rằng, thứ nhất, các doanh nghiệp trong khu công nghiệp cần tiếp cận nguồn năng lượng tái tạo, không chỉ là điện mặt trời mái nhà mà còn đến từ nhà máy sản xuất năng lượng tái tạo công suất lớn. Thứ hai, khả năng tiếp cận nước sạch và công nghệ xử lý nước sạch hiệu quả.
Thứ ba, cần có cơ chế thúc đẩy các doanh nghiệp thực thi nghiêm túc, đồng bộ các quy định được đặt ra trong khu công nghiệp để đạt hiệu quả cao, tránh tình trạng trong cùng cơ sở có doanh nghiệp làm nhưng doanh nghiệp thì không. Thứ tư, các địa phương cung cấp cơ sở hạ tầng mềm, có chính sách thu hút nhân lực có tay nghề…; hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện và hoàn thiện thủ tục hành chính trong các lĩnh vực hải quan, thuế… thúc đẩy sản xuất kinh doanh và xuất khẩu.
Cuối cùng, để có thể thu hút vốn đầu tư chất lượng cao, các khu công nghiệp cung cấp chương trình phát triển bền vững theo xu hướng toàn cầu mà các nhà đầu tư trên toàn cầu đang tìm kiếm.
PGS.TS Nguyễn Đình Thọ - Viện trưởng Viện Chiến lược Chính sách Tài nguyên và Môi trường cho biết, để phát triển các KCN bền vững cần có thể chế để doanh nghiệp thực hiện và vận hành, Nhà nước sẽ hỗ trợ ưu đãi về đất đai, thuế phí và các hình thức hỗ trợ khác. Xu thế chuyển đổi tuần hoàn, chuyển đổi xanh là bắt buộc, doanh nghiệp sẽ phải đối diện khó khăn cạnh tranh trước mắt và đối mặt 3 khủng hoảng toàn cầu là biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, đa dạng sinh học.
Do đó, theo ông Thọ, quy hoach KCN tuần hoàn, KCN sinh thái có nhiều vấn đề cần cân nhắc, liệu chúng ta có đưa sát lại khu dân cư hay không? Vấn đề thách thức rất lớn khi tạo ra KCN sinh thái, tạo ra bệnh viện cho công nhân, nhà ở cho công nhân tại KCN.
Khẳng định kinh tế tuần hoàn yêu cầu về kéo dài vòng đời vật liệu, giảm phát thải, ông Thọ cho rằng tiêu chí hiện chúng ta xây dựng đã đầy đủ để doanh nghiệp căn cứ vào đó xây dựng phương hướng trong tương lai.
“Chuỗi kinh tế tuần hoàn bắt đầu từ khảo sát, điều tra, thăm dò, sản xuất, phân loại, vận chuyển, lưu trữ…. Nếu chúng ta thiết kế được trong một khu công nghiệp mà “đầu ra” của doanh nghiệp này là “đầu vào” của doanh nghiệp khác thì yêu cầu phải từ khâu thiết kế ban đầu”, ông Thọ nhấn mạnh.
Đồng thời cho biết hiện Luật Bảo vệ môi trường đã quy định nhà tái chế có thể thu hồi sản phẩm của doanh nghiệp khác đã mở ra cánh cửa vào đầu tiên.
Chính vì vậy, ông Thọ nhận định, khi thiết kế các KCN sinh thái có thể vận hành chúng ta cần thể chế hoá các quy định trước đây, tuân thủ luật chơi của thế giới.
Cho biết từ tháng 10/2023 châu Âu áp dụng biên giới carbon với nhiều sản phẩm, ông Thọ nhận định với KCN chúng ta thực hiện kiểm kê, báo cáo và cấp chứng chỉ carbon với rác thải trong KCN hay không? Đây là nội dung quan trọng phải chuẩn bị từ bây giờ.
Bên cạnh đó, hàng hoá sang châu Âu không được liên quan phá rừng, từ năm 2025 phải chứng minh được sản phẩm không liên quan phá rừng.
“Như vậy, liên quan rác thải và đa dạng sinh học sẽ là những luật chơi mới mà bắt buộc doanh nghiệp chúng ta phải áp dụng. Nếu doanh nghiệp hiểu được rằng thực hiện sản xuất sạch là yêu cầu thực hiện, để tạo giá trị phải làm ngay từ đầu. Nếu chúng ta không tuân thủ cuộc chơi sẽ gạt bỏ mình ra khỏi cuộc chơi.
Chúng ta có thể tuần hoàn ngay từ trong doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải cùng nhau cộng sinh”, ông Thọ nhấn mạnh.
Ông Trương Khắc Nguyên Minh – Phó Tổng Giám đốc KCN Việt Nam chia sẻ, KCN Việt Nam là nhà phát triển bất động sản công nghiệp, chuyên phát triển, thiết kế và quản lý cơ sở hạ tầng công nghiệp và hậu cần tại Việt Nam. Công ty đã nhận thấy nhu cầu ngày càng tăng về bất động sản công nghiệp cho thuê chất lượng cao, cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của Việt Nam. KCN Việt Nam sở hữu quỹ đất hơn 200 ha cùng giá trị đầu tư hơn 300 triệu USD. Tầm nhìn dài hạn của công ty là tập trung vào việc trở thành lựa chọn hàng đầu của các doanh nghiệp, đóng vai trò then chốt trong quá trình mở rộng toàn cầu của Việt Nam thành một trung tâm công nghiệp bền vững.
Cũng theo ông Minh, Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các khu công nghiệp, khu kinh tế trên khắp cả nước. Xu hướng này phản ánh cam kết cũng như nỗ lực của Chính phủ trong việc thúc đẩy mũi nhọn công nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, mục tiêu biến Việt Nam trở thành một trong những mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu.
Theo ông Minh, trong quá trình chuyển đổi ngành công nghiệp của Việt Nam, “Chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2025, tầm nhìn 2035" của Chính phủ đóng vai trò then chốt. Chiến lược này nhấn mạnh việc phát triển các ngành công nghệ cao, hỗ trợ mạnh mẽ các doanh nghiệp với sáng kiến đổi mới sáng tạo; đồng thời, đặt việc phát triển các khu công nghiệp hiện đại, bền vững là trụ cột chính trong hành trình nâng hạng ngành công nghiệp của Việt Nam.
Để tận dụng cơ hội này nhằm đẩy mạnh phát triển toàn ngành công nghiệp, đóng góp vào phát triển chung của quốc gia, Việt Nam cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hơn nữa thể chế, chính sách; đồng thời điều chỉnh mục tiêu, định hướng phát triển khu công nghiệp và khu kinh tế để thích ứng với bối cảnh mới.
Đối với Tập đoàn KCN Việt Nam, ông Minh cho rằng, yếu tố giúp doanh nghiệp cạnh tranh và thuyết phục hiệu quả các nhà đầu tư nước ngoài là sự linh hoạt trong hình thức sản phẩm với đa dạng các loại hình nhà kho, nhà xưởng xây sẵn chất lượng cao.
Bên cạnh các loại hình truyền thống, KCN Việt Nam hiện đang cung cấp các giải pháp nhà kho xưởng hỗn hợp, nhà kho xưởng xây theo yêu cầu của nhà đầu tư, cùng việc sắp ra mắt hệ thống nhà kho hiện đại, trong đó nổi bật là sản phẩm kho ngoại quan. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhà đầu tư nước ngoài, toàn bộ hệ thống nhà kho, xưởng của KCN Việt Nam đều được hoàn thiện, đảm bảo các tiêu chuẩn công nghiệp về độ cao trần, tải trọng sàn, khu vực xuất nhập hàng hoá, hệ thống phòng cháy chữa cháy hiện đại và các yếu tố an toàn khác.
Hiện KCN Việt Nam đã phát triển 8 dự án tại các tỉnh, thành kinh tế trọng điểm tại cả khu vực miền Bắc, Nam với tổng quỹ đất gần 200ha. Tất cả các dự án án của KCN Việt Nam sẽ được triển khai hệ thống điện năng lượng mặt trời trên mái, cũng như đặt mục tiêu đạt chứng chỉ công trình xây dựng xanh LEED. Ngoài việc đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về dịch vụ phụ cận cho doanh nghiệp và người lao động, KCN Việt Nam cũng từng bước sớm triển khai áp dụng bộ tiêu chuẩn ESG.
Ông Nguyễn Công Thịnh - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Xây dựng dẫn số liệu đến cuối tháng 12/2023, Việt Nam có khoảng 397 công trình xanh, trong đó rất đáng mừng là trên dưới 100 công trình xanh đến từ các khối công nghiệp. Riêng TP. Hải Phòng, trong quý 1/2024 đã có trên 10 dự án công nghiệp đăng ký đánh giá để chứng nhận công trình xanh. Đây là một xu hướng rất mới, đón đầu các yêu cầu về thuế carbon trên thế giới mà EU đã áp dụng thí điểm từ tháng 10/2023 và sẽ bắt buộc từ năm 2026.
Tại Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI đã tiếp cận rất nhanh chóng vì đây là điều kiện bắt buộc để chúng ta có thể xuất khẩu hàng hóa. Vậy bài toán của doanh nghiệp mà như nhiều diễn giả đã nêu là làm sao để doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp nhưng chỉ lo về vấn đề sản xuất, mà không lo về các chứng chỉ xanh liên quan đến hạ tầng, thì còn là câu chuyện khó khăn.
Ông Nguyễn Công Thịnh cho rằng thực tế, khu công nghiệp nào cũng muốn thu hút rất nhiều ngành nghề để mở rộng, nhưng rất khó để có khu công nghiệp mà các ngành vào cùng một lúc với nhau. Để đáp ứng hạ tầng KCN xanh, chúng ta sẽ quay trở lại một góc độ khác, đó là hạ tầng khu công nghiệp và Nghị định 35/2022 mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu có những nét rất là mới. Nhưng để phát triển khu công nghiệp bền vững thì còn đòi hỏi rất nhiều yếu tố. Ngoài các vấn đề về môi trường, thì các báo cáo của ESG đã yêu cầu rất nhiều, trong đó bền vững là cao nhất.
Khi soi chiếu các quy định pháp luật, chúng tôi thấy rằng, làm hạ tầng khu công nghiệp sẽ phải tham chiếu rất nhiều các quy chuẩn. Thứ nhất, yêu cầu 25% quỹ đất dành cho cây xanh, giao thông, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, nhưng trong QCVN 01:2021/BXDthì chỉ quy định tối thiểu 10% cây xanh. Do đó, để làm được khu công nghiệp sinh thái, chúng ta cần phải có tỉ lệ cây xanh cao hơn, tuy nhiên điều đó chưa chắc được coi là đánh giá đủ các yêu cầu.
Cụ thể, khi đi kiểm tra ở một khu công nghiệp, diện tích cây xanh có thể đủ nhưng chất lượng của cây xanh không đạt. Quanh hàng rào khu công nghiệp, cây xanh phải dày tối thiểu 10m, nhưng hiện nay phần lớn các khu công nghiệp đều chưa đáp ứng tiêu chuẩn này.
Ông Trần Tiến Dũng - Uỷ viên VLA, Chủ tịch Hiệp hội Logistic Hải Phòng thông tin tại Diễn đàn, các doanh nghiệp FDI đến Việt Nam đều vào các khu công nghiệp, qua đó cho thấy vai trò quan trọng của các khu công nghiệp trong thu hút FDI. Tuy nhiên, cơ hội đón đầu xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng trên toàn cầu để nhưng cơ hội này không chia đều cho các quốc gia dù Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi. Cần nhìn nhận thẳng thắn rằng, chúng ta chậm bước hơn so với nhiều quốc gia dù không có lợi thế về vị trí địa lý như Việt Nam nhưng họ đi nhanh hơn nhờ sớm chuyển đổi số, chuyển đổi xanh.
Vì thế, phát triển bền vững là nội dung không phải là lựa chọn mà các nhà phát triển khu công nghiệp và ngành nghề liên quan bắt buộc phải làm. Tại hội nghị COP26, Chính phủ cam kết thực hiện NetZero vào năm 2050. Từ nay đến thời điểm đó tuy dài nhưng các khách hàng cao cấp đến từ Mỹ, châu Âu đã cam kết Net Zero sớm hơn vào năm 2030.
Do đó, trên thực tế chỉ còn hơn 5 năm để các doanh nghiệp thực hiện và hành động.Vì vậy, “từ thời điểm này chúng ta phải phát triển bền vững để vừa cạnh tranh các nước trong thu hút FDI vừa cạnh tranh giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ trong nước. Doanh nghiệp nào đi sớm, đi nhanh trong phát triển bền vững sẽ có nhiều cơ hội hơn để thu hút khách hàng phân khúc cao hơn” – ông Dũng nói.
Trong ngành logistic, Việt Nam có 3 cảng nước sâu nằm trong nhóm top 50 càng nước sâu trên thế giới về mặt sản lượng nhưng so với các nước, chúng ta vẫn còn khiêm tốn. Năm 2023 đã hình thành các tuyến vận tải xanh được sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp, khách hàng, người tiêu dùng và các đơn vị vận chuyển.
Từ góc độ của doanh nghiệp logistic, ông Trần Tiến Dũng chia sẻ: ở khu vực phía Nam các doanh nghiệp cơ bản đã tận dụng tốt tài nguyên thiên nhiên, cơ sở đường sông nâng cao tỷ trọng vận tải đường thuỷ nội địa nhằm tiết giảm chi phí vận tải, logistic, gián tiếp góp phần giảm khí thải nhưng ở khu vực miền Bắc, Bắc Trung Bộ, duyên hải miền Trung phụ thuộc nhiều vào đường bộ tạo áp lực lớn về giảm khí thải, đầu tư hạ tầng đường giao thông, nguy cơ gây mất an toàn giao thông, nhân lực vận chuyển… Trong khi đó, hệ thống sông ở khu vực phía Bắc thuận lợi cho phát triển vận tải đường thuỷ nội địa.
Ông Nguyễn Tiến Dũng kiến nghị các nhà phát triển bất động sản khu công nghiệp quan tâm dành nguồn quỹ đất ở những vị trí có thể phát triển bến cảng thuỷ nội địa, nâng cao tỷ lệ hiện có là 2%, góp phần giảm phát thải. Hiệp hội sẵn lòng song hành hợp tác đầu tư.
Chia sẻ về vấn đề nhà ở công nhân trong các KCN, KTS Phạm Thanh Tùng, Ủy viên Thường trực - Chánh Văn phòng Hội KTS Việt Nam cho biết, mặc dù nhận được nhiều sự quan tâm nhưng “bức tranh” về nhà ở công nhân các KCN và nhà ở xã hội trên cả nước vẫn chưa sáng sủa.
Cụ thể, nhiều năm qua, việc đầu tư phát triển các KCN chưa tính đến một cách đầy đủ, khoa học nhu cầu ở của công nhân, người lao động đến làm việc, trong đó phần lớn là lao động ngoại tỉnh (chiếm khoảng 50%). Những địa phương có tỷ lệ lao động nhập cư cao như TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, thì số lao động ngoại tỉnh chiếm tới 70%.
Tại các KCN, hiện mới có khoảng 30% số lao động có chỗ ở ổn định, còn lại phải tự thu xếp, thuê trọ rải rác ở bên ngoài với điều kiện sống tạm bợ, hết sức khó khăn, thiếu những điều kiện sinh hoạt tối thiểu và không an toàn. Hầu hết các KCN, các dự án nhà ở xã hội nằm ở ven đô, xa trung tâm đô thị, nên hệ thống nhà ở công nhân đã thiếu lại không được gắn kết với tiện ích đô thị và hạ tầng xã hội.
Việc quy hoạch, lựa chọn địa điểm, vị trí xây dựng các khu nhà ở công nhân, nhà ở xã hội không thuận lợi, thiết kế kiến trúc thì đơn điệu, không phù hợp với sinh hoạt và lối sống của công nhân nhập cư, hay của người thu nhập thấp…
Theo ông Tùng, cần xác định, xây dựng nhà ở cho công nhân các KCN thuê là chính (có chỗ ở hợp pháp), thay vì mua (để sở hữu nhà). Bởi nhu cầu ở của công nhân phụ thuộc vào thời gian làm việc tại KCN và khả năng kinh tế chưa cho phép. Vì thế cần có khảo sát, điều tra xã hội học về vấn đề này. Ở nhiều nước phát triển châu Âu, khoảng 90% người dân có nhu cầu thuê nhà ở. Vị trí, diện tích đất để xây dựng nhà ở công nhân phải đảm bảo sự đồng bộ về hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và gần nơi làm việc.
Về vấn đề này, ông Tùng cho biết những người kinh doanh nhà trọ rất nhạy bén và kinh doanh khá thành công, đáp ứng được nhu cầu thuê để ở của công nhân, cho dù rất nhiều khu nhà trọ không đảm bảo về điều kiện sinh hoạt, an ninh trật tự và phòng chống cháy nổ.
Các dịch vụ cho người lao động phải được đảm bảo, như phúc lợi xã hội, nhà ở, đào tạo nghề, các hoạt động vui chơi giải trí, trường mẫu giáo, nhà trẻ cho con em công nhân, tôn trọng quyền riêng tư của công nhân khi sống trong khu nhà ở.
Theo KTS Tùng, xây dựng quy hoạch nhà ở công nhân phải đồng bộ với phát triển đô thị, dịch vụ, phân bố dân cư và nhà ở trong một đề án tổng thể, thống nhất, làm cơ sở cho việc thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng trên cơ sở lợi thế, điều kiện và khả năng thực hiện.
Trong quy hoạch KCN phải bố trí đất làm nhà ở cho công nhân thuê – mua, bảo đảm đáp ứng tối thiểu 70% số lượng công nhân có nhu cầu về chỗ ở, có hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Cần sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách chưa phù hợp về đất đai, về vốn đầu tư, về quy hoạch, về phát triển hạ tầng đồng bộ..., tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tham gia vào dự án phát triển nhà ở cho công nhân thuê-mua với giá phù hợp với khả năng thu nhập hàng tháng.
“Nhà nước cũng cần xem xét việc hỗ trợ tiền sử dụng đất, xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hệ thống cung cấp nước sạch và tiêu thải nước mưa, nước sinh hoạt… để khuyến khích các nhà đầu tư cá nhân, hay hộ gia đình gần KCN xây dựng, cải tạo nhà trọ cho công nhân thuê đảm bảo về vệ sinh môi trường, về quy định phòng chống cháy nổ và an toàn cho công nhân khi sống trong các nhà trọ” - KTS Phạm Thanh Tùng nói.
Ông Đinh Hồng Kỳ, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp TP HCM, Phó Chủ tịch Hiệp hội Xây dựng và Vật liệu xây dựng TP HCM cho biết, tại Diễn đàn ngày hôm nay, có một vấn đề chúng ta cần làm rõ, như thế nào là khu công nghiệp sinh thái, như thế nào là khu công nghiệp xanh và hướng tới phát triển bền vững?
Ông thông tin, hiện nay, chúng ta đang bị những quy định cũ và các câu chuyện mới lẫn lộn với nhau. Ví dụ tại chương trình Net Zero Đài Loan và các khu công nghiệp sinh thái tại Đài Loan, khi khảo sát chúng tôi thấy rằng, họ có những lộ trình và quy định hết sức rõ ràng cho câu chuyện như thế nào là phát triển bền vững, như thế nào là Net Zero đối với các khu công nghiệp.
Thứ nhất, khi nói đến các khu công nghiệp xanh không phải là trồng nhiều cây mà là từ thiết kế vật liệu, đến phát thải trong suốt quá trình sản xuất. Vì vậy, việc phát thải carbon là câu chuyện then chốt hiện nay. Tại Toronto, Singapore hay Đài Loan, họ đưa ra những tiêu chuẩn rõ ràng cho các nhà máy trong các khu công nghiệp đạt đủ tiêu chuẩn mới được đưa vào vận hành.
Đồng thời, họ có các chính sách rất rõ ràng, đó là chuyển đổi các nhà máy hiện hữu theo hướng trung hòa carbon. “Từ một số kinh nghiệm đó để thấy, chúng ta cần thể chế hóa cụ thể, thì mới nói được câu chuyện phát triển bền vững các khu công nghiệp ở Việt Nam” – ông Kỳ nói.
Thứ hai, chúng ta cũng nói nhiều đến quản lý rác thải, tái chế và cộng sinh công nghiệp. Ông Đinh Hồng Kỳ cho biết, đây là hai vấn đề có mối quan hệ tương hỗ với nhau, nghĩa là cộng sinh công nghiệp thì phải thiết kế, quy hoạch từ đầu để đầu ra của doanh nghiệp này là đầu vào của doanh nghiệp kia. Sâu xa hơn mới đến câu chuyện kinh tế tuần hoàn, trong khi chúng ta còn đang ở một nền kinh tế tuyến tính.
“Vì chúng ta không có công nghệ xử lý tái chế thì chưa thể nói đến tuần hoàn. Chúng tôi cho rằng, vai trò của Nhà nước hiện rất quan trọng trong việc thay đổi các quy định, đặc biệt là xử lý rác thải tái chế, hỗ trợ các khu công nghiệp” – ông nhấn mạnh.
PGS.TS Phan Đăng Tuất - Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cho biết, với 1000 hội viên là doanh nghiệp chế tạo chi tiết linh kiện nhỏ với đặc thù là yếu về tài chính, rủi ro về đầu tư và “cô đơn” trong khu công nghiệp. Trong giai đoạn hội nhập toàn cầu hiện nay, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ khó bán chi tiết nhỏ lẻ, buộc phải chế tạo cụm chi tiết mới hội nhập với chuỗi giá trị. Từ yêu cầu này xuất hiện đòi hỏi khách quan là phát triển các cụm công nghiệp, khu công nghiệp kết nối doanh nghiệp theo chiều ngang, chiều dọc để sản xuất các cụm chi tiết.
Dẫn thực tế tại Nhật Bản, PGS.TS Phan Đăng Tuất cho biết, có khu công nghiệp chỉ có 28 doanh nghiệp sản xuất chế hoà khí cho tất cả các loại xe máy, chung nhau về công nghệ, thu mua nguyên liệu, xử lý rác thải… Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp này đã cung ứng được sản phẩm cho nhiều hãng sản xuất khác và họ rất hùng mạnh.
PGS.TS Phan Đăng Tuất bày tỏ mong muốn các cơ quan chức năng có cơ chế, chính sách để trong tương lai gần hình thành khu công nghiệp dành cho công nghiệp hỗ trợ. Còn hiện nay, các hội viên của Hiệp hội khi đến khu công nghiệp hiện đại thì bị áp nhiều tiêu chuẩn xanh, tuần hoàn. Đến khu công nghiệp cũ thì không đáp ứng yêu cầu của nhà cung ứng.
PGS.TS Phan Đăng Tuất cũng mong muốn được phối hợp cùng với VCCI điều tra hệ thống công nghiệp hỗ trợ tìm hiểu nguyện vọng để doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp; nghiên cứu, đề xuất cơ chế chính sách hình thành khu công nghiệp - đây là cơ hội biến khu công nghiệp thành khu công nghiệp xanh, sinh thái do công nghiệp hỗ trợ hiện đại và bền vững lâu dài cho công nghiệp chế tạo.
Ông Trần Thiên Long – Phó Chủ tịch Thường trực Liên chi hội BĐS công nghiệp Việt Nam cho biết, các KCN đã đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam, nhưng chưa đóng góp nhiều cho tăng trưởng xanh và bền vững bởi những tác động của nó đến môi trường sinh thái.
Trước xu hướng phát triển bền vững và tăng trưởng xanh là xu thế bao trùm trên thế giới và xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn trong nước, việc chuyển đổi và phát triển các KCN bền vững tại Việt Nam là một trong những giải pháp mang tính cấp thiết cần phải được đặt lên hàng đầu.
Trên thế giới, nhiều quốc gia đã triển khai mô hình KCN bền vững dưới dạng các KCN sinh thái và KCN công nghiệp - đô thị - dịch vụ, song ở Việt Nam mô hình này vẫn còn khá mới mẻ và mới chỉ đang được thực hiện thí điểm ở một số KCN.
Cách thức triển khai mô hình KCN bền vững ở Việt Nam là chuyển đổi từ các KCN truyền thống sang mô hình KCN sinh thái bằng cách chú trọng đến các tiêu chí của mô hình KCN sinh thái. Đây là cách làm khác so với các quốc gia trên thế giới là hình thành và xây dựng KCN sinh thái ngay từ đầu. Cho nên những thực trạng đó trong việc xây dựng mạng lưới KCN bền vững tại Việt Nam đã gặp nhiều những rào cản.
Cũng trong phiên thảo luận, ông Trần Thiên Long đã chia sẻ những rào cản, những đề xuất nhằm thúc đẩy sự phát triển của KCN bền vững tại Việt Nam.
Theo ông Long, thứ nhất là vấn đề ô nhiễm môi trường, đặc biệt là việc ô nhiễm nước thải và khí thải tại các KCN. Với vấn đề này chúng ta phải đầu tư vào công nghệ xử lý, thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo vào các KCN, KKT.
Thứ hai là thiếu hạ tầng. Giải pháp là phải đẩy mạnh hạ tầng giao thông và kỹ thuật cùng với việc tạo ra các chính sách hỗ trợ đầu tư vào các KCN ở những vùng và hạ tầng phát triển tốt.
Thứ ba là vấn đề thiếu lao động chất lượng, đây là thực trạng mà một số KCN đang gặp phải và giải pháp là đầu tư vào đào tạo, tìm kiếm các nguồn nhân lực chất lượng cao nhăm đáp ứng các yêu cầu về nhân lực tại các KCN.
Bên cạnh đó là những thách thức về quản lý, vì quản lý KCN một cách hiệu quả cần phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp và chính quyền địa phương. Giải pháp theo ông Long đưa ra là tăng cường cơ chế quản lý và giám sát, thúc đẩy sự tham gia của các bên.
Ông Trần Quốc Hải – Trưởng bộ phận phát triển Kinh doanh Tập đoàn SP Việt Nam thông tin, có thực tế là 28% sản lượng điện phục vụ cho việc làm lạnh, làm mát công suất của các doanh nghiệp và do đó cần giải pháp tiết giảm nguồn điện này. Bên cạnh đó, hiện vấn đề quản lý năng lượng cần được chú ý.
“Từ thực tế của chúng tôi thấy rằng, doanh nghiệp khi giám sát và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng có thể tiết giảm chi phí 3-5%, thúc đẩy phát triển bền vững của doanh nghiệp. Do đó, chúng tôi mong muốn VCCI và cộng đồng doanh nghiệp kết nối đưa ra cách tiếp cận tổng thể, nâng cao việc sử dụng năng lượng hiệu quả, góp phần phát triển bền vững doanh nghiệp” – ông Hải nói.
GS. Hà Tôn Vinh cho biết, hiện nay, tại Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp trong khu công nghiệp nói riêng, chúng ta đang phải đối mặt với vấn đề rất lớn đó là, các câu chuyện, các khái niệm, các vấn đề dồn dập như "xanh”, bền vững", "kinh tế tuần hoàn" và cả "tín chỉ carbon".
GS chia sẻ, từ trước đến nay, chúng ta đều bắt đầu từ phát triển kinh tế để có tiền, sau đó mới chuyển sang công tác xã hội, rồi đến áp lực về COP26 và tất cả các vấn đề về môi trường, trong khi doanh nghiệp chưa sẵn sàng để có thể làm cùng một lúc.
Đây là một áp lực rất lớn đối với cộng đồng doanh nghiệp. Vì vậy, có một việc chúng ta phải làm, đó là tìm một mô hình nào đó mà nhà nước, doanh nghiệp, báo chí cùng tham gia để doanh nghiệp có thể đảm đương được tất cả: vừa làm kinh tế cho mình, vừa làm cho xã hội và vừa bảo vệ môi trường.
Nhìn từ thế giới, GS Hà Tôn Vinh cho biết, có một số nước đã nhận thức ra rằng để đạt được nhiều mục tiêu cùng lúc thì phải làm chậm, nhưng các tiêu chí được thực hiện đồng thời. Tuy nhiên điều đó cũng đòi hỏi một lộ trình cụ thể.
“Theo kinh nghiệm của tôi khi làm việc với Ngân hàng Thế giới trong lĩnh vực công nghiệp, thứ nhất là phải chia sẻ thông tin. Các cơ quan báo chí, các cơ quan quản lý Nhà nước cần có các trang web, cơ sở dữ liệu chung cho mọi doanh nghiệp cùng hiểu biết giống nhau. Thứ hai, khuyến khích những doanh nghiệp chưa làm thì bắt đầu làm. Thứ ba, đề nghị các doanh nghiệp phải thay đổi về vấn đề môi trường, điện, rác thải. Thứ tư, tạo áp lực để họ phải thay đổi. Và cuối cùng, quan trọng nhất là chúng ta phải có chế tài. Nếu đã đề nghị, khuyến khích, áp lực mà vẫn không làm, thì sẽ phải có chế tài để tất cả những vấn đề này được đi vào quy củ” – GS Hà Tôn Vinh nhấn mạnh.
Có thể bạn quan tâm
10:52, 28/03/2024
10:04, 28/03/2024
09:30, 28/03/2024
09:10, 28/03/2024