Mức thuế suất doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu 15% làm xáo trộn chiến lược về địa điểm đầu tư và cách thức hoạt động của các công ty đa quốc gia và chiến lược thu hút FDI của các nước.
>>Thuế suất tối thiểu toàn cầu: Việt Nam nên giành quyền đánh thuế và bổ sung ưu đãi
Thuế doanh nghiệp không phải động lực hàng đầu của FDI
Thuế suất doanh nghiệp thường được coi là một biến trong mô hình FDI đa biến. Trong hầu hết các trường hợp, tác động của việc giảm phần trăm thuế doanh nghiệp được dự đoán sẽ dẫn đến mức tăng FDI ước tính.
Tuy nhiên, không có mối tương quan nào giữa mức thuế doanh nghiệp thấp hơn và mức vốn FDI cao hơn trên quy mô toàn cầu. Trên thực tế, cũng không có mối tương quan đáng kể nào khi xem xét lượng vốn FDI trên đầu người hoặc khi chỉ tập trung vào FDI xanh (và FDI trên đầu người vào lĩnh vực xanh).
Các động lực FDI quan trọng khác như quy mô thị trường, nhân công, sự ổn định, môi trường kinh doanh… đóng vai trò chính trong việc thúc đẩy các quyết định giúp các nước duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững.
Thuế doanh nghiệp ảnh hưởng khác nhau đến trung tâm thương mại và trung tâm sản xuất
Điểm khác biệt quan trọng được thực hiện khi xem xét tác động của thuế doanh nghiệp đối với FDI xét theo loại hình hoạt động kinh doanh. Mức thuế doanh nghiệp thấp hơn có nhiều khả năng tác động đến các trung tâm thương mại hơn là các hoạt động của trung tâm sản xuất.
Ví dụ, trụ sở chính và văn phòng kinh doanh giới thiệu sản phẩm sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn khi thay đổi thuế suất doanh nghiệp. Các hoạt động phần mềm và R&D có thể sẽ ít bị ảnh hưởng hơn khi thuế suất thay đổi vì các hoạt động này tập trung vào chi phí nhiều hơn và chịu ảnh hưởng ít hơn bởi thuế và nhiều hơn bởi chất lượng lao động, nghiên cứu và mạng lưới.
FDI dựa trên nhu cầu thị trường cũng sẽ ít bị ảnh hưởng hơn trong việc thay đổi tỷ lệ thuế. Ví dụ như Mỹ (với thuế suất doanh nghiệp 27%) và Trung Quốc (25%) tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng FDI. Điều này là do các công ty chấp nhận đánh đổi trả thuế cao hơn để tiếp cận cơ sở khách hàng lớn hơn.
Viện Quản trị chính sách và chiến lược phát triển và các đối tác Đề án Từ Chính sách ra Cuộc sống, Hội đồng nghiên cứu chính sách TW Hội doanh nhân trẻ, tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp V-startup và mạng lưới hỗ trợ khởi nghiệp Vietnam Startup Ecosystem…. sẽ tiếp tục cùng trao đổi và đồng hành với các cơ quan Chính phủ trong quá trình xây dựng giải pháp chính sách công bằng và hợp lý, giúp bảo vệ nguồn thu và thúc đẩy thu hút đầu tư tại Việt Nam.
Thứ nhất, Việt Nam cần tiến hành việc chuẩn bị về mọi mặt cho sự hiện diện thực tế của Trụ cột II, trong bối cảnh nhiều quốc gia sẽ áp dụng chính sách về thuế tối thiểu toàn cầu ngay từ năm 2024. Các chính sách ứng phó với tác động của Trụ cột II nên được xây dựng trong ngắn hạn cũng như dài hạn.
Trong ngắn hạn, việc có áp dụng cơ chế thuế tối thiểu nội địa đạt tiêu chuẩn để giành quyền thu thuế nên được cân nhắc sớm, đối chiếu với quy định của OECD cũng như vấn đề về lợi ích và chi phí nếu thực hiện. Trong dài hạn, hệ thống thuế cùng với các ưu đãi thuế cũng cần được xem xét cải cách nhằm hạn chế tác động tiêu cực của Trụ cột II, đảm bảo thu hút đầu tư thực chất, hạn chế các hoạt động làm xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận.
Chúng tôi cũng lưu ý rằng, việc ban hành bất cứ chính sách hoặc cơ chế mới nào cũng cần được xem xét cẩn trọng để đảm bảo tính công bằng cho các doanh nghiệp thuộc phạm vi và không thuộc phạm vi điều chỉnh của Trụ cột II, đảm bảo thống nhất với quy định về bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư theo Luật Đầu tư hiện tại, cũng như không vi phạm các cam kết quốc tế và quy định của OECD mà Việt Nam đang tham gia.
Thứ hai, đối với việc hỗ trợ các doanh nghiệp đa quốc gia bị ảnh hưởng bởi Trụ cột II, các hình thức ưu đãi đầu tư mới dựa trên chi phí, đặc biệt là ưu đãi bằng tiền, nên được cân nhắc với những ưu điểm nhất định so với hình thức đầu tư dựa trên thu nhập. Việt Nam nên cân nhắc cải cách hệ thống ưu đãi thuế để phù hợp hơn trong tình hình mới, song song với việc tham khảo, lấy ý kiến tư vấn OECD, cũng như các chính sách đang được thực hiện bởi các quốc gia khác.
Thứ ba, Việt Nam có thể điều chỉnh chính sách thuế hiện tại để đưa ra cơ chế ưu đãi phù hợp cho các doanh nghiệp đa quốc gia chịu ảnh hưởng của GMT, nhằm bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp này khi đầu tư tại Việt Nam để khuyến khích đầu tư, mở rộng đầu tư, đồng thời cũng dung hòa với quyền lợi của Việt Nam trong việc giành quyền đánh thuế trong bối cảnh GMT.
Cơ chế này cần được nghiên cứu, cân nhắc kỹ, ví dụ như liệu thuế suất nội địa 15% (bằng với mức GMT) có nên được áp dụng với các đối tượng doanh nghiệp này hay không, nếu áp dụng thì nên trong thời gian như thế nào (trong một khoảng thời gian dài hoặc toàn bộ vòng đời dự án đầu tư), và Việt Nam có đưa ra hình thức ưu đãi nào nhằm hỗ trợ thêm cho doanh nghiệp trong trường hợp áp dụng thuế suất 15% hay không (như các hỗ trợ bằng tiền, hỗ trợ các khoản chi phí, hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp…).
Cơ chế này cần được nghiên cứu, đề xuất sớm, trong bối cảnh Trụ cột II sẽ có hiệu lực từ năm 2023 và một số quốc gia đặt trụ sở chính của các công ty đa quốc gia có thể nội luật hóa để áp dụng Trụ cột II từ năm 2023.
>>Áp dụng thuế suất tối thiểu toàn cầu, Việt Nam sẽ tăng sức hấp dẫn nhà đầu tư ra sao?
>>Thuế suất tối thiểu toàn cầu ảnh hưởng thế nào đến chiến lược của doanh nghiệp tại Việt Nam?
Thứ tư, Việt Nam nên tiếp tục nghiên cứu, đẩy mạnh việc phát triển các yếu tố thu hút đầu tư khác ngoài công cụ ưu đãi thuế, như cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn lao động, hệ thống pháp lý... (những yếu tố giúp nâng cao xếp hạng về môi trường kinh doanh của Việt Nam).
Việt Nam cũng cần cân nhắc việc triển khai có hiệu quả 15 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết và có hiệu lực, đặc biệt là các FTA thế hệ mới, được ký kết gần đây với các đối tác thương mại lớn như CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP..., đồng thời thúc đẩy và tham gia đàm phán, ký kết các FTA với Hoa Kỳ và các đối tác thương mại khác.
Các hiệp định bảo hộ đầu tư được tách riêng như EVIPA cũng cần được thúc đẩy quá trình phê chuẩn của đối tác để sớm có hiệu lực, tạo niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài.
Đối với các doanh nghiệp đa quốc gia, các doanh nghiệp nên theo dõi sát sao quá trình phát triển các quy định của Trụ cột II trên toàn cầu cũng như tại Việt Nam, đặc biệt là các chính sách của Chính phủ Việt Nam trong bối cảnh Trụ cột II.
Các doanh nghiệp cũng nên chủ động cùng với công ty mẹ đánh giá tác động của Trụ cột II đối với tình hình hoạt động kinh doanh cũng như cấu trúc của doanh nghiệp trong ngắn hạn cũng như dài hạn, và tham gia đóng góp ý kiến từ góc độ doanh nghiệp cho Chính phủ Việt Nam trong quá trình xây dựng, điều chỉnh nội luật.
Thứ năm, Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ về thuế suất tối thiểu toàn cầu nên sớm triển khai đánh giá tác động và nghiên cứu, xây dựng khung pháp lý nội luật liên quan đến việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu, để đảm bảo các chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được thực thi hiệu quả.
Thứ sáu, Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ về thuế suất tối thiểu toàn cầu cần có thêm thành viên có chuyên môn khoa học Quản trị chính sách, đánh giá tác động truyền thông chính sách, lấy ý kiến tác động chung về thuế suất tối thiểu, có các hoạt động truyền thông dự thảo chính sách nội luật liên quan đến thuế suất tối thiểu toàn cầu.
Có thể bạn quan tâm
01:30, 31/03/2023
04:20, 21/03/2023
00:00, 08/09/2022