Theo kế hoạch dự kiến, Trung tâm tài chính quốc tế tại TP Hồ Chí Minh có thể đi vào vận hành ngay trong năm 2025.
Đến hiện tại, vẫn còn nhiều vấn đề được đặt ra và đang được thúc đẩy, khuyến nghị để cải thiện, hoàn thiện, đặc biệt để phát huy sức cạnh tranh, các lợi thế của thị trường vốn Việt Nam đầy tiềm năng.
Trong đó, chuyên gia phân tích của Chứng khoán Rồng Việt cho rằng, yếu tố về cạnh tranh khu vực và địa chính trị có thể nhìn nhận như lợi thế quan trọng để thúc đẩy thị trường vốn.

Trước hết, về khung chính sách, thể chế. Bốn nghị quyết lớn về khoa học đổi mới, hội nhập thế hệ mới, cải cách thể chế và phát triển khu vực tư nhân đặt nền cho giai đoạn “Đổi mới 2.0” đã được Bộ Chính trị ban hành. Quốc hội và Chính phủ đã tinh gọn bộ máy và rút ngắn thủ tục. Khung pháp lý rõ ràng làm giảm rủi ro hoạt động là điều kiện tiên quyết việc vận hành trung tâm tài chính.
Trên thực tế, xây dựng khung pháp lý ra sao ở Trung tâm tài chính quốc tế, cũng là điều được các nhà đầu tư hết sức quan tâm. Một hệ thống pháp luật ổn định, rõ ràng, có khả năng dự đoán và hơn thế, tạo thuận lợi, hấp dẫn đối với nhà đầu tư, luôn được các chuyên gia nhấn mạnh như một nền tảng quan trọng của cơ sở vận hành và xây dựng niềm tin, sự gắn bó của nhà đầu tư với các thị trường tại Trung tâm tài chính.
Nghị quyết số 222/2025/QH15 của Quốc hội về Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam được xem là nền tảng chính sách quan trọng, đặt ra tầm nhìn chiến lược cho IFC Việt Nam. Các chính sách, định hướng triển khai hướng đến sự rõ ràng và hoàn thiện các quy định, góp phần củng cố niềm tin này.
TS. Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội cho biết, Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam có cơ chế bao trùm nhiều lĩnh vực, bao gồm ngoại hối, ngân hàng, thị trường vốn, thuế, xuất nhập khẩu, cư trú, đi lại và tài phán quốc tế. Quốc hội dự kiến sẽ xem xét việc thành lập một Tòa án chuyên biệt trong Trung tâm tài chính quốc tế, nhằm giải quyết các tranh chấp theo chuẩn mực quốc tế và thông lệ của hệ thống Common Law.
Ngoài ra, sẽ có cơ quan giám sát và trọng tài quốc tế được đặt tại TP Hồ Chí Minh. Các giao dịch kinh tế-thương mại trong trung tâm được phép lựa chọn luật quốc tế để áp dụng, tùy theo nhu cầu của các bên. Cơ chế tài phán của Trung tâm là cơ chế đặc thù, tách biệt so với hệ thống hiện hành. Cũng không loại trừ khả năng có thẩm phán là người nước ngoài tham gia vào cơ quan này...
Đây là những điểm vô cùng mới, đột phá, có thể "va chạm" với hệ thống pháp luật chung nhưng cho thấy sự quyết tâm của Việt Nam, đáp ứng tính cần thiết, đặc thù của khung pháp lý tại Trung tâm tài chính quốc tế để đảm bảo sự cạnh tranh vượt trội.
Đáng chú ý, theo VDSC, đặt trong bối cảnh cạnh tranh khu vực, biến động địa chính trị và dịch chuyển vốn đang khiến Việt Nam có lợi thế hơn. Cụ thể, Hồng Kông đối mặt với sự bất định thể chế, trong khi chi phí Singapore leo thang, khiến doanh nghiệp đa quốc gia và nhóm tài sản giàu có tìm kiếm điểm đến thay thế một phần.

hìn lại các Trung tâm tài chính quốc tế của khu vực, từ thập niên 1980–2000, Hồng Kông là “cửa ngõ vốn” gắn với Trung Quốc, còn Singapore đóng vai “đầu não” điều phối của công ty đa quốc gia (MNCs) nhờ môi trường pháp lý ổn định. Sau các biến động năm 2019 và Luật An ninh quốc gia 20201, rủi ro thể chế ở Hồng Kông khiến nhiều doanh nghiệp và các triệu phú cân nhắc dịch chuyển sang Singapore và các nước khác. Tuy nhiên, chi phí vận hành tại Singapore thuộc nhóm đắt nhất thế giới, cho thấy nhu cầu tìm một điểm đến thay thế một phần trong khu vực để giảm chi phí.
Theo đó, Việt Nam có lợi thế về chi phí và quy mô thị trường nội địa, đủ lớn để hình thành hệ sinh thái dịch vụ tài chính, nhưng vẫn mở để gắn vào chuỗi giá trị khu vực.
Các ứng viên trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia..., theo chuyên gia, mặc dù có những thế mạnh nhưng tiềm ẩn rủi ro. Do đó, đây có thể cũng sẽ là một trong những điểm tương đồng với đáp án cho câu hỏi mà các chuyên gia đặt ra: Trung tâm tài chính quốc tế của Việt Nam có điểm gì để cạnh tranh lại và thu hút được nhà đầu tư dịch chuyển từ các trung tâm khác, ví dụ Singapore và các thị trường khác, để đến Việt Nam?
Tại một hội thảo ở TPHCM, ông Nguyễn Tú Anh - Giám đốc Nghiên cứu Chính sách, Trường Đại học VinUni cho rằng, Việt Nam có thể tận dụng bối cảnh biến động đa cực và xu hướng tiến đến hình thành một trật tự đa cực, để đóng vai trò là "hub" kết nối giữa các cực, tạo lợi thế cạnh tranh.
Việc phát triển thương mại quốc tế theo VDSC, cũng cộng hưởng cho lợi thế cạnh tranh cho tiềm năng của thị trường vốn và Trung tâm tài chính quốc tế. Việt Nam đứng nhóm đầu ASEAN về kim ngạch xuất nhập khẩu, sở hữu 16 hiệp định thương mại tự do và nằm trên tuyến hàng hải toàn cầu. Quy hoạch cảng biển trọng điểm, sân bay Long Thành và mạng lưới cao tốc tạo nền tảng kết nối hàng không và đường biển, đây là hạ tầng bổ trợ quan trọng cho dịch vụ tài chính thương mại, thanh toán quốc tế và quản trị dòng tiền xuyên biên giới. Kết nối vật lý tốt là điều kiện để dịch vụ tài chính tăng quy mô ổn định.
Bên cạnh đó, Trung tâm tài chính quốc tế của Việt Nam đang hướng đến chính sách thành viên và ưu đãi cho khu trung tâm tài chính đang theo hướng chọn lọc. Việt Nam ưu tiên các tổ chức quy mô lớn và doanh nghiệp thuộc danh sách toàn cầu, đồng thời mở cho ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm nước ngoài theo mô hình phù hợp. Về thuế, các ngành ưu tiên được suất thuế doanh nghiệp 10% trong thời hạn dài, các ngành khác 15% trong thời hạn trung bình. Chuyên gia nước ngoài được miễn hoặc giảm thuế thu nhập cá nhân theo diện ưu tiên. Chính sách đất đai cho phép giao hoặc cho thuê đất sạch với thời hạn dài, tăng quyền thế chấp và chuyển nhượng, tạo lợi thế so với nhiều địa phương trong khu vực.
Về chi phí và giá dịch vụ tài chính, Việt Nam đang sở hữu lợi thế giá thành nổi trội. Phí niêm yết cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp trong nước chỉ ở mức vài trăm đô la, thấp hơn rất nhiều so với Singapore và Hồng Kông với mức từ hàng chục nghìn đến hơn một trăm nghìn đô la cộng phụ phí. Thời gian thẩm định hồ sơ IPO khoảng 30 ngày và trái phiếu doanh nghiệp khoảng 15 ngày, nhanh hơn phần lớn đối thủ khu vực. Tiền thuê văn phòng hạng A và lương nhân sự tài chính tại TP. HCM và Đà Nẵng thấp đáng kể, giúp Việt Nam nổi bật như một trung tâm tối ưu chi phí. Đây là nền tảng để thu hút các hoạt động tối ưu chi phí của các định chế khu vực.
"Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước thu nhập cao, do đó Việt Nam đã thực hiện 4 trụ cột (NQ 57, 59, 66, 68) và 3 giải pháp phải cải cách toàn diện nền kinh tế tăng trưởng năng suất và nâng cao đầu tư. Thực tiễn cho thấy các nước đạt được thu nhập cao đều có mức tỷ lệ đầu tư hơn 30% GDP và tăng trưởng năng suất suất hơn 2%. Tuy nhiên, thị trường tài chính Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào tín dụng Ngân hàng, do đó Trung tâm tài chính là nhu cầu thiết yếu để dẫn vốn cho nền kinh tế giúp cân bằng và giảm chi chi phí vốn", VDSC nhấn mạnh.
Cùng với các lợi thế sẵn có và đang được bổ sung, hoàn thiện, phát huy, tuy vậy, để phát triển thực chất, theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Thị Bích Ngọc, điều quan trọng là phải có sản phẩm và dịch vụ tài chính cụ thể, hấp dẫn, như sàn giao dịch hàng hóa, sản phẩm phái sinh, dịch vụ fintech… Đây cũng là yếu tố then chốt để tạo niềm tin, thu hút nhà đầu tư và khẳng định vị thế của Việt Nam trong mạng lưới trung tâm tài chính toàn cầu.