Dù EU khó thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc, nhưng các thỏa thuận của EU với các nền kinh tế châu Á hiện vẫn cung cấp một số biện pháp phòng ngừa rủi ro.
Nỗ lực của châu Âu nhằm giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc thông qua các hiệp định thương mại ở châu Á có thể không đạt được kết quả như mong muốn. Thay vì phá vỡ mối quan hệ, EU lại đang bị lôi kéo sâu hơn vào chuỗi cung ứng, nơi các công ty Trung Quốc vẫn giữ vai trò trung tâm.
Những thỏa thuận gần đây của EU với Việt Nam, Indonesia và Ấn Độ đã mở rộng khả năng tiếp cận thị trường và đa dạng hóa nhà cung cấp, đồng thời chuyển hướng nhu cầu của châu Âu vào các mạng lưới sản xuất do Trung Quốc kiểm soát.
Trong khi đó, EU vẫn đang tiếp tục đàm phán thương mại với Thái Lan, Malaysia và Philippines. Kết quả sẽ không phải là sự giải phóng khỏi Bắc Kinh, mà là sự phụ thuộc được tái cấu trúc thành những hình thức phức tạp hơn.
Tuần trước, Indonesia và EU đã ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện (CEPA) sau gần một thập kỷ đàm phán, mang lại lợi ích cho hơn 700 triệu người tiêu dùng thông qua việc xóa bỏ thuế quan. Được ca ngợi là một bước đột phá trong việc mở rộng nguồn cung, CEPA mở rộng khả năng tiếp cận của EU đối với niken, dầu cọ và các dịch vụ kỹ thuật số của Indonesia. Tuy nhiên, những tác động sâu xa hơn của nó lại rất đa dạng.
Indonesia sở hữu trữ lượng niken lớn nhất thế giới, thiết yếu cho quá trình chuyển đổi năng lượng của châu Âu. Tuy nhiên, 75% công suất tinh chế niken của nước này lại do các bên liên quan Trung Quốc kiểm soát. Vì vậy, các ngành công nghiệp châu Âu có thể tiếp cận nguyên liệu thô, nhưng thông qua một chuỗi giá trị được định hình bởi sự hiện diện của Bắc Kinh.
Trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ số, sự mất cân bằng vẫn tiếp diễn. Tham vọng về chất bán dẫn của Indonesia phụ thuộc vào linh kiện Trung Quốc và đầu vào từ Hàn Quốc và Đài Loan, trong khi thị trường số của nước này lại tích hợp châu Âu vào các nền tảng do Bắc Kinh kiểm soát.
Tương tự với dầu cọ, CEPA dự kiến sẽ tăng xuất khẩu dầu cọ của Indonesia sang EU lên khoảng 4 triệu tấn vào năm tới, tăng từ mức ước tính 3,3 triệu tấn trong năm nay, giúp giảm chi phí cho ngành công nghiệp này nhưng vẫn thúc đẩy các tập đoàn kinh doanh nông nghiệp Trung Quốc nắm giữ cổ phần lớn tại các đồn điền.
Trong khi đó, Ấn Độ cũng cho thấy một bức tranh tương tự. Ngành dược phẩm của nước này là một trong những nhà cung ứng chính cho châu Âu về thuốc gốc và dược chất. Tuy nhiên, ước tính có đến 70% hóa chất thô và nguyên liệu đầu vào thiết yếu của ngành này lại có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tới một nửa linh kiện điện tử mà Ấn Độ nhập khẩu cũng đến từ Trung Quốc.
Vì vậy, khi mua hàng hóa từ Indonesia hay Ấn Độ, châu Âu không thực sự thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc. Trái lại, nhu cầu được điều hướng vào những chuỗi cung ứng mà doanh nghiệp Trung Quốc đang nắm giữ vị thế then chốt, qua các trung gian do Bắc Kinh kiểm soát. Trung Quốc dường như đang ở vị thế có thể hưởng lợi, bất kể dòng chảy thương mại từ châu Âu đi theo hướng nào.
Về mặt địa chính trị, tác động đối với châu Âu là rất hạn chế. Nếu Trung Quốc quyết định hạn chế xuất khẩu đất hiếm, vật liệu bán dẫn hoặc hóa chất thiết yếu, hệ lụy sẽ lan rộng khắp khu vực châu Á – Thái Bình Dương, làm gián đoạn các chuỗi cung ứng của châu Âu, bất chấp nỗ lực đa dạng hóa.
Theo Sebastian Contin Trillo-Figueroa, nhà phân tích địa chính trị chuyên về quan hệ EU-Á, việc mở rộng quan hệ thương mại giúp châu Âu gia tăng mạng lưới đối tác, nhưng đồng thời cũng mở rộng các kênh mà qua đó Bắc Kinh có thể gia tăng ảnh hưởng.
Điều này khiến châu Âu dễ bị tổn thương hơn trước những chuỗi giá trị do Trung Quốc kiểm soát qua các điểm trung gian, và vô hình trung củng cố vai trò trung tâm của Bắc Kinh trong các ngành công nghiệp chiến lược toàn cầu.
Số liệu kinh tế cho thấy rõ những điểm yếu này. Ví dụ, các nhà xuất khẩu EU kỳ vọng tiết kiệm được 600 triệu euro (704 triệu USD) mỗi năm nhờ Hiệp định CEPA.
Thế nhưng, riêng xuất khẩu ô tô của Đức sang Trung Quốc trong năm 2023 đã đạt 16,2 tỷ USD. Nếu Bắc Kinh hạn chế quyền tiếp cận thị trường, chỉ tính riêng tổn thất từ xuất khẩu ô tô đã đủ để làm lu mờ toàn bộ các lợi ích thương mại khác.
Tuy nhiên, chuyên gia này cũng cho rằng, đánh giá thấp nỗ lực đa dạng hóa sẽ bỏ qua khía cạnh thể chế của quá trình này. Những hiệp định thương mại như EVFTA hay CEPA giúp Brussels hiện diện mạnh hơn tại các nền kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, đồng thời thúc đẩy các chuẩn mực về phát triển bền vững, lao động và quản trị số, dù việc thực thi còn chưa đồng đều, như minh chứng qua các lần trì hoãn quy định chống phá rừng của EU.
Một số ý kiến khác cũng chỉ ra, hiệp định này cũng tạo thêm lựa chọn cho chính phủ các nước đối tác. Indonesia đang giảm sự lệ thuộc vào vốn Trung Quốc và Mỹ bằng cách tăng cường vai trò của châu Âu trong mạng lưới thương mại.
Ấn Độ coi đầu tư châu Âu là sự bổ sung cho các mối quan hệ đối tác khác. Nhờ vậy, nỗ lực đa dạng hóa của EU cũng đang góp phần giúp các nước đối tác tự đa dạng hóa chính mình.
Điều này tạo nên một dạng phụ thuộc chồng lớp: doanh nghiệp Trung Quốc thống trị khâu đầu vào và hạ tầng sản xuất ở châu Á, trong khi châu Âu cung cấp phần nào vai trò phòng vệ.
Chính sách thương mại của EU tại châu Á đang mang lại những kết quả trái chiều. Một mặt, EU đã phần nào giảm được sự lệ thuộc trực tiếp vào Trung Quốc, nhưng mặt khác lại làm gia tăng mức độ phơi nhiễm gián tiếp qua các trung gian khu vực.
Đòn bẩy của Trung Quốc vẫn tồn tại, dù đã được phân tán qua nhiều nền kinh tế. Châu Âu giành được sự hiện diện và quan hệ thể chế, nhưng chưa đạt được mức độ độc lập mà giới lãnh đạo từng kỳ vọng. Kết quả cuối cùng là EU có quyền tiếp cận sâu hơn vào các thị trường gắn liền với hệ thống sản xuất mà Trung Quốc vẫn đang giữ vai trò trụ cột.