Số lượng xe điện tại Việt Nam sẽ tăng nhanh trong thời gian tới. Khi số lượng xe điện tăng thì nhu cầu về điện cũng tăng, gây áp lực lớn lên sản xuất và cung ứng điện.
Theo Ngân hàng Thế giới, quá trình đốt cháy xăng và dầu diesel của các phương tiện giao thông đường bộ, là tác nhân lớn nhất gây ra phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực giao thông.
Ngân hàng Thế giới cũng cho biết, tại Việt Nam, các phương tiện giao thông đường bộ chiếm tới 85% tổng phát thải khí nhà kính, của toàn ngành giao thông vận tải. Trong số các phương tiện giao thông đường bộ, xe tải các loại đóng góp khoảng 54%, xe máy đóng góp 28%, xe buýt và xe khách liên tỉnh đóng góp 11%, ô tô con đóng góp 6% và xe buýt đô thị đóng góp khoảng 1% lượng phát thải. Vì vậy, mục tiêu giảm phát thải ngành giao thông vận tải Việt Nam, phụ thuộc rất nhiều vào tình hình giảm phát thải của các phương tiện giao thông đường bộ.
Vào tháng 7/2022, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 876/QĐ-TTg, phê duyệt “Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí các-bon và khí mê-tan của ngành giao thông vận tải”. Với giao thông đường bộ, Quyết định 876/QĐ-TTg của Chính phủ cũng đặt ra lộ trình: đến năm 2040, từng bước hạn chế tiến tới dừng sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu xe ô tô, xe mô tô, xe gắn máy sử dụng nhiên liệu hóa thạch để sử dụng trong nước. Đến năm 2050, toàn bộ 100% phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, chuyển đổi sang sử dụng điện, năng lượng xanh.
Để đạt được mục tiêu của Quyết định 876/QĐ-TTg, giảm khoảng 7,2% phần đóng góp của ngành giao thông vận tải, vào tổng lượng khí thải nhà kính trong toàn nền kinh tế; hướng tới đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050, cần phải phát triển hệ thống giao thông vận tải đường bộ xanh.
Điện khí hóa đội xe vận tải đường bộ là chiến lược quan trọng trong Chương trình hành động của Chính phủ. Dự báo số lượng xe điện tại Việt Nam sẽ tăng mạnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, khi số lượng xe điện tăng thì nhu cầu về điện cho sạc pin xe cũng tăng mạnh, gây áp lực lên sản xuất và cung ứng điện.
Báo cáo “Việt Nam: Đề xuất cho lộ trình và kế hoạch hành động quốc gia về chuyển đổi sang phương tiện giao thông chạy điện”, do Ngân hàng Thế giới công bố ngày 22/11/2024, đã đưa ra dự báo về nhu cầu điện dành cho xe điện từ nay đến năm 2050. Theo đó, càng về sau nhu cầu càng tăng cao.
Ngân hàng Thế giới cho biết, từ nay tới năm 2035 sẽ không tạo ra bất kỳ nhu cầu đáng kể nào đối với việc bổ sung công suất điện theo Quy hoạch điện 8 đã được Chính phủ phê duyệt vào tháng 5/2023. Ngay cả khi nhu cầu về xe điện các loại tăng cao, thì tổng nhu cầu điện dành cho sạc xe chỉ tăng thêm 2% vào năm 2030 và 5% vào năm 2035. Bởi vì xe điện trong giai đoạn này chủ yếu là xe máy, sử dụng pin nhỏ và thường di chuyển trên quãng đường ngắn. Nhu cầu điện gia tăng trong giai đoạn này có thể được đáp ứng tương đối dễ dàng.
Nhưng từ năm 2035 trở đi, nhu cầu điện bổ sung cho sạc xe điện sẽ tăng vọt, do sự tăng nhanh của ô tô điện các loại. Dự kiến đến năm 2045, nhu cầu điện cho xe điện sẽ tăng thêm khoảng 12 - 14% sản lượng điện, so với kịch bản cao của Quy hoạch điện 8 (mức độ cao của Quy hoạch điện 8 năm 2045 là 187.496 GWh). Đến năm 2050, nhu cầu điện cho sạc xe điện sẽ tăng lên khoảng khoảng 20 - 25% so với kịch bản cao của Quy hoạch điện 8 (mức độ cao của Quy hoạch điện 8 năm 2050 là 208.555 GWh). Điều này sẽ gây áp lực đáng kể lên hoạt động sản xuất điện.
Tổng mức đầu tư bổ sung cần thiết để tăng sản lượng điện, đáp ứng nhu cầu sạc xe điện giai đoạn 2024 - 2030 cần từ 6-9 tỷ USD, giai đoạn 2031 - 2040 cần khoảng 59 tỷ USD và giai đoạn 2041 - 2050 sẽ cần khoảng 200 tỷ USD.
Để giảm bớt tác động này mà không ảnh hưởng đến các nỗ lực giảm phát thải của ngành giao thông vận tải, Ngân hàng Thế giới khuyến nghị Chính phủ Việt Nam nên thúc đẩy việc chuyển đổi từ sử dụng xe cá nhân sang phương tiện công cộng chạy điện và chuyển đổi việc sử dụng xe tải điện sang vận tải đường sắt hoặc đường thủy.
Cùng với đó là cải cách biểu giá điện và xây dựng hệ thống các trạm sạc thông minh, để khuyến khích sạc ngoài giờ cao điểm, giúp giảm tác động từ việc sạc xe điện lên hệ thống điện giờ cao điểm.
Tuy nhiên, lợi ích lớn khi chuyển đổi sang phương tiện giao thông chạy điện là giảm tiêu thụ xăng và dầu diesel. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Ngân hàng Thế giới ước tính, đến năm 2050 Việt Nam sẽ thu được lợi ích lớn từ việc giảm nhu cầu nhiên liệu hóa thạch do quá trình chuyển đổi sang phương tiện giao thông chạy điện. Cụ thể sẽ giảm tiêu thụ từ 168,907 triệu lít xăng và 361,823 triệu lít dầu diesel (kịch bản thấp), đến 306.401 triệu lít xăng và 409.416 triệu lít dầu diesel (kịch bản cao), so với không có xe điện. Với giá dầu thế giới khoảng 80 USD/thùng thì tổng chi phí tiết kiệm được từ 300 - 500 tỷ USD. Qua đó, giúp giảm sự phụ thuộc của Việt Nam vào nhập khẩu dầu mỏ và nâng cao an ninh năng lượng của đất nước. Hơn nữa, còn làm giảm phát thải khí nhà kính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ 60-66% vào năm 2050.