Nghị quyết 70-NQ/TW khẳng định an ninh năng lượng là bộ phận của an ninh quốc gia, yêu cầu tăng trưởng điện “đi trước một bước”, phát triển mạnh LNG, cải cách thủ tục, huy động khu vực tư nhân...
Bộ Chính trị vừa ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, với những điểm mới và đột phá chính như: Ưu tiên tuyệt đối an ninh năng lượng như một bộ phận của an ninh quốc gia; tăng trưởng điện phải “đi trước một bước” để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng GDP hai chữ số 2026–2030.
Khu vực tư nhân là động lực quan trọng, mở rộng vai trò từ phát điện sang truyền tải, phân phối, dịch vụ; đồng thời cắt giảm 30–50% thời gian thủ tục hành chính trong lĩnh vực năng lượng.
Cho phép xử lý nhanh dự án cấp bách. Trường hợp dự án quan trọng có nội dung khác quy hoạch liên quan, không phải điều chỉnh quy hoạch trước; sau khi phê duyệt, các quy hoạch được cập nhật kịp thời…
Định hướng hạ tầng hiện đại: bên cạnh truyền tải bằng dòng điện xoay chiều, sẽ nghiên cứu áp dụng công nghệ truyền tải siêu cao áp một chiều và cáp ngầm dưới biển để tháo gỡ các điểm nghẽn của hệ thống lưới điện.
Cụ thể, đến năm 2030, phát triển đầy đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) theo nhu cầu cấp cho các nguồn điện khí LNG và các nhu cầu khác. Hình thành các trung tâm năng lượng tập trung khí LNG tại các vùng, miền, bảo đảm hài hòa phát triển cân đối.
Trong giải pháp phát triển nguồn cung và hạ tầng năng lượng nói chung, ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu, dự trữ và tiêu thụ LNG. Xây dựng chính sách giá khí hợp lý, bảo đảm hài hòa lợi ích các bên liên quan. Phát triển thị trường khí đạt quy mô khoảng 30–35 tỷ m³/năm.
Về nguồn điện, phát triển cân đối, hợp lý các nguồn điện, trong đó nhấn mạnh ưu tiên các dự án nguồn điện công suất lớn, hiệu quả cao, thân thiện môi trường, bao gồm điện khí LNG.
Chủ động phương án nhập khẩu, xuất khẩu điện gắn với khai thác LNG, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và hiệu quả kinh tế.
Có cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội để thu hút và triển khai các dự án năng lượng quan trọng, trong đó có điện khí LNG. Khuyến khích khu vực tư nhân tham gia mạnh mẽ vào đầu tư các dự án LNG (cả hạ tầng và phát điện). Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, xử lý các điểm nghẽn trong cấp phép, huy động vốn cho các dự án LNG.
Trước những yêu cầu về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia nói chung và vị trí hạ tầng năng lượng chiến lược của điện LNG, đặt ra vấn đề cần tiếp tục tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến loại hình điện LNG hiện nay, trong đó có những bất cập lớn liên quan đến hạ tầng LNG – diện tích cảng, yêu cầu an toàn PCCC, thủ tục đầu tư…
Đặc biệt, là những dự án có điều kiện thuận lợi trong triển khai như dự án nhiệt điện LNG Công Thanh (đã có chủ đầu tư, đã san gạt được 80% mặt bằng, khả năng thu xếp tài chính thuận lợi và không gặp phải vướng mắc như như các dự án LNG hiện đang triển khai hiện nay...) thì cần khẩn trương được xem xét, quyết liệt tháo gỡ các khó khăn để sớm bổ sung nguồn điện cho hệ thống điện, đặc biệt là tại khu vực miền Bắc trong giai đoạn 2026 - 2030. Đây là dự án quan trọng Quốc gia, ưu tiên, của ngành Điện. Còn trên thực tế những tồn tại vướng mắc của dự án hiện nay là không đáng kể, hoàn toàn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa.
Cụ thể, đến thời điểm này, dự án Nhiệt điện LNG Công Thanh (Thanh Hóa) đã được đưa vào Danh mục các dự án nguồn điện quan trọng quốc gia theo Điều chỉnh Quy hoạch điện VIII, dự kiến phát điện vào năm 2030. Theo lộ trình, Công Thanh đã nộp Báo cáo nghiên cứu khả thi tháng 7/2025, sẽ hoàn tất thủ tục góp vốn đầu tư nước ngoài và thiết kế cơ sở trong năm 2026, thu xếp vốn và lựa chọn tổng thầu EPC trong năm 2026, khởi công năm 2027, chạy thử vào năm 2030 và hòa lưới thương mại quý III/2030. Công suất dự kiến giai đoạn 1 là 1.500 MW, mở rộng lên 3.000 MW vào năm 2035.
Tuy nhiên, về hạ tầng kho cảng LNG, hiện trạng mặt bằng bến cảng không đủ bố trí toàn bộ hạng mục LNG bởi yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn PCCC và môi trường biển, các hạng mục kho chứa LNG, hệ thống tái hóa khí, đường ống công nghệ phải bố trí khoảng cách an toàn đáng kể với cảng chuyên dụng hiện hữu. Trong khi đó, kết quả phân tích, đánh giá khuếch tán nhiệt cho thấy chỉ có thể bố trí kho cảng LNG ở khu vực xen giữa 2 kênh dẫn và xả nước làm mát (2 kênh cố định), để vừa bảo đảm hiệu suất vận hành, vừa đáp ứng yêu cầu về môi trường nước – biển.
Quy mô bến cảng chưa đáp ứng nhu cầu của Dự án. Dự án hiện cần mở rộng thêm 195 m chiều dài bến, nâng tổng chiều dài sử dụng theo mặt nước biển lên 595 m, diện tích 26,77 ha. Nếu không được chấp thuận mở rộng, tổng mặt bằng sẽ không đủ điều kiện kỹ thuật, dẫn đến nguy cơ chậm tiến độ và không đạt tiêu chuẩn an toàn LNG quốc tế.
Đặc biệt, về thủ tục pháp lý, mặc dù đã có chủ trương chuyển đổi từ than sang LNG, nhưng Công Thanh vẫn cần được cấp Giấy chứng nhận đầu tư điều chỉnh, điều chỉnh công suất từ 600 MW lên 1.500 MW và tổng mức đầu tư khoảng 62,4 tỷ đồng (cần rà soát lại giá trị để bảo đảm tính khả thi). Đây là điểm nghẽn pháp lý quan trọng, nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ triển khai.
Chính vì vậy, Công Thanh kiến nghị chấp thuận giữ nguyên vị trí, quy mô, diện tích khu đất mặt biển (595m bờ biển) cho hệ thống kho LNG và tái hóa khí để chủ đầu tư có thể triển khai đầu tư ngay dự án cơ sở hạ tầng cung cấp khí (bao gồm các hạng mục nhà máy chính, bến tiếp nhận tàu LNG và kho chứa LNG và tái hóa khí) theo các giai đoạn nêu trên.
Sớm cấp lại chủ trương đầu tư và giấy chứng nhận đầu tư điều chỉnh của dự án, đảm bảo tuân thủ các quy hoạch ngành Quốc gia đã ban hành nhằm triển khai dự án nhiệt điện LNG Thanh Hóa đúng tiến độ.
Chấp thuận và cấp diện tích khu đất còn lại khoảng 64 ha của Nhà máy phân đạm Công Thanh trước đây để Công ty cổ phần nhiệt điện Công Thanh làm khu trung tâm bảo trì Tuabin máy phát cho các nhà máy điện khi LNG Công Thanh và các nhà máy trong khu vực.
Nếu các kiến nghị trên được Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa chấp thuận chủ đầu tư dự án cũng cam kết sẽ triển khai dự án hiệu quả và chắc chắn đưa dự án vào vận hành trong giai đoạn 2029 – 2030...., góp phần bổ sung khoảng 8-9 tỷ kWh/năm cho hệ thống điện miền Bắc giai đoạn 2026 – 2030, đóng góp GDP lớn cho địa phương, tạo công ăn việc làm, đảm bảo an sinh xã hội, đồng thời làm tròn trách nhiệm của địa phương trước các chỉ đạo của Đảng, Bộ Chính trị và Chính phủ trong việc chung tay đảm bảo an ninh cung ứng điện cho phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của người dân....